Tóm tắt

Tóm tắt lịch sử hình thành Đà Lạt: Thành phố mộng mơ giữa cao nguyên

Chào mừng bạn đến với website yeulichsu.edu.vn, nơi chia sẻ kiến thức và niềm đam mê lịch sử của chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi mời bạn khám phá và hiểu sâu hơn về lịch sử hình thành của thành phố Đà Lạt – viên ngọc quý của cao nguyên Lâm Viên.

Thành phố không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp mê hồn của mình mà còn có một quá khứ phong phú, từ khi được khám phá bởi người Pháp cho đến khi trở thành một trong những điểm du lịch hàng đầu Việt Nam. Hãy cùng chúng tôi điểm qua những mốc thời gian quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của Đà Lạt.

Khám phá quá lịch sử thành và phát triển của Đà Lạt

Khám phá quá lịch sử thành và phát triển của Đà Lạt

Đà Lạt, tọa lạc trên cao nguyên Lâm Viên với độ cao trung bình 1.500 mét so với mực nước biển, đã trải qua 115 năm hình thành và phát triển. Ngày nay, thành phố này không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Lâm Đồng mà còn là điểm đến du lịch và nghỉ dưỡng hàng đầu trong cả nước và khu vực.

Đà Lạt nổi tiếng với những cảnh quan xinh đẹp và là một trong những thành phố du lịch được yêu thích nhất tại Việt Nam. Dưới thời Pháp thuộc, Đà Lạt có tên tiếng Latin là Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có ý nghĩa là “mang niềm vui cho người này, sự mát mẻ cho người khác”. Thành phố này còn được biết đến với nhiều biệt danh như thành phố hoa, thành phố tình yêu, thành phố mùa xuân và thành phố sương mù.

Vùng cao lâm viên

Cao nguyên Lâm Viên từ lâu đã là quê hương của các dân tộc bản địa như người Lạch, người Chil và người Srê thuộc nhóm Cơ Ho. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà thám hiểm người Pháp đã bắt đầu khám phá vùng đất này. Trong số đó, bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans đã tiến hành một chuyến thám hiểm đáng chú ý vào đầu năm 1881.

Vào năm 1893, theo sự chỉ đạo của Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sĩ Alexandre Yersin đã điều tra một tuyến đường bộ từ Sài Gòn đến vùng đất của người Thượng, kết thúc tại một điểm trên bờ biển Trung Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trong quá trình thám hiểm này, Alexandre Yersin đã đến cao nguyên Lâm Viên.

Vào năm 1897, trong khi đang tìm kiếm một địa điểm để xây dựng một khu nghỉ dưỡng cho người Pháp ở Đông Dương. Paul Doumer đã hỏi ý kiến của Alexandre Yersin và Yersin đã đề xuất cao nguyên Lâm Viên làm địa điểm lý tưởng do có độ cao phù hợp, diện tích rộng rãi, nguồn nước dồi dào, khí hậu ôn hòa và khả năng xây dựng đường giao thông thuận lợi.

Vào cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng Alexandre Yersin đã đến thực địa khảo sát cao nguyên Lâm Viên.

Vào ngày 1/11/1899, Doumer chính thức ký nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut-Donnai) tại Trung Kỳ, với hai trạm hành chính mới ở Tánh Linh và cao nguyên Lang Biang. Đây được coi là bước đầu tiên trong việc chính thức thành lập khu điều dưỡng tại cao nguyên Lang Biang, tiền thân của thành phố Đà Lạt ngày nay.

Đà Lạt năm 1928

Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ban hành một đạo dụ quan trọng, chính thức thành lập thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles phê chuẩn vào ngày 30 tháng 5 năm 1916.

Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ 20, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường chính từ Sài Gòn và Phan Thiết đến Đà Lạt. Sự phát triển của hệ thống giao thông đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Đà Lạt. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn chỉ là một khu định cư nhỏ với khoảng 8 căn nhà gỗ dọc theo dòng Cam Ly, và chỉ có 9 phòng khách sạn.

Tuy nhiên, vào cuối năm đó, số lượng phòng khách sạn đã tăng lên đến 26 phòng. Đến cuối năm 1923, kế hoạch thiết kế đầu tiên cho Đà Lạt đã hoàn thành và dân số đã tăng lên đến 1.500 người.

Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương đã chấp thuận một đạo dụ của vua Khải Định ban hành vào ngày 11 tháng 10 cùng năm, chính thức nâng cấp Đà Lạt thành một thành phố (loại 2) và cùng với đó là sự tái lập của tỉnh Đồng Nai Thượng.

Mục tiêu là biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát hàng đầu ở Đông Dương, và một Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ đã được thành lập để quản lý điều này. Đến năm 1928, tỉnh lị tỉnh Đồng Nai Thượng đã được chuyển về Đà Lạt, và một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương, đã được bổ nhiệm để điều hành thành phố.

Lang Biang Đà Lạt

Trong những năm 1940, Đà Lạt phát triển mạnh mẽ và trở thành “thủ đô mùa hè” của Liên bang Đông Dương dưới thời Pháp thuộc. Dù trong thời gian chiến tranh, thành phố này vẫn duy trì vai trò là một trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, và giáo dục khoa học của Việt Nam Cộng hòa.

Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đà Lạt chứng kiến sự ra đời của nhiều trường học, trung tâm văn hóa, và công trình kiến trúc mới, đồng thời trở thành nơi định cư của nhiều người di cư từ miền Bắc.

Vào năm 1941, Đà Lạt được tái lập làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Viên (Lang Biang) mới. Thị trưởng của Đà Lạt cũng kiêm nhiệm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.

Trong Thế chiến thứ hai, nhiều người Pháp không thể trở về nước nên đã chọn Đà Lạt làm nơi nghỉ ngơi. Thành phố cũng trở thành nguồn cung cấp rau và hoa quả cho cộng đồng Pháp tại đây.

Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Đại đã ký Dụ số 4-QT/TD để ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.

Theo tài liệu “Địa phương chí Đà Lạt” (Monographie de Dalat) năm 1953, thị xã Đà Lạt khi đó là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ với diện tích 67 km² và dân số 25.041 người.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh do sự di cư từ Bắc vào Nam. Dưới chính quyền của miền Nam, Đà Lạt được phát triển theo hướng một trung tâm giáo dục và khoa học.

Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Đức và được chia thành 10 khu phố.

Nhiều cơ sở giáo dục và nghiên cứu được thành lập tại đây, bao gồm Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), và trường Chỉ huy và Tham mưu (1967).

Bên cạnh đó, các cơ sở du lịch cũng được xây dựng và sửa chữa liên tục, cùng với sự xuất hiện của hàng loạt biệt thự, chùa chiền, nhà thờ, và tu viện mới. Đà Lạt cũng trở thành điểm thu hút nhiều văn nghệ sĩ.

Sau năm 1975, khi quân đội và chính quyền miền Nam rút đi, Đà Lạt được bổ sung bởi cán bộ và quân đội từ miền Bắc, khiến dân số của thành phố ổn định ở mức khoảng 86,000 người. Trong những năm cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, ngành du lịch tại Đà Lạt, trước đó gần như bị bỏ quên, bắt đầu được phục hồi với việc sửa chữa nhiều khách sạn, nhà hàng và biến các biệt thự cũ thành các cơ sở lưu trú du lịch. Đà Lạt dần trở thành một điểm du lịch nổi bật tại Việt Nam, nơi tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc.

Đà Lạt năm 1960

Vào cuối năm 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban đầu đã quyết định biến Đà Lạt thành một trong bốn thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng sau đó đã có điều chỉnh.

Vào tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng mới, với Đà Lạt là thành phố tỉnh lỵ.

Từ cuối thập niên 1980, Đà Lạt đã dần phục hồi và phát triển với làn sóng du khách ngày càng đông và cơ sở hạ tầng được cải thiện liên tục. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Đà Lạt được công nhận là đô thị loại II và vào ngày 23 tháng 3 năm 2009, chính thức trở thành thành phố đô thị loại I thuộc tỉnh Lâm Đồng.

Thành phố Đà Lạt ngày nay

Như vậy, qua bài viết này trên website yeulichsu.edu.vn, chúng ta đã cùng nhau khám phá quá trình hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt, từ một vùng đất hoang sơ trở thành “thủ đô mùa hè” của Đông Dương dưới thời Pháp thuộc đến một trung tâm du lịch, văn hóa và giáo dục của Việt Nam hiện đại.

Đà Lạt không chỉ là điểm đến lý tưởng để nghỉ dưỡng mà còn là kho báu của di sản lịch sử, văn hóa phong phú mà chúng ta cần gìn giữ và trân trọng. Hãy tiếp tục theo dõi và khám phá thêm nhiều câu chuyện lịch sử thú vị khác tại yeulichsu.edu.vn để hiểu rõ hơn về quá khứ, hiện tại và tương lai của các di sản văn hóa Việt Nam.

Tác giả:

Nguyễn Thúy là một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bà Nguyễn Thúy sớm thể hiện niềm đam mê đặc biệt với các câu chuyện lịch sử và di sản văn hóa dân tộc. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu và khám phá các tài liệu lịch sử quý giá, từ đó đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cho cộng đồng học thuật và xã hội.Nguyễn Thúy tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử. Bà tiếp tục học cao học và nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi bà đã có những nghiên cứu sâu rộng về các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là các giai đoạn Lý, Trần và Lê sơ. Bà cũng tham gia nhiều dự án nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Đông Nam Á, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực này.