Thời cổ đại

Lịch sử Hy Lạp cổ đại: Nền văn minh khai sáng phương Tây

Tìm hiểu lịch sử Hy Lạp cổ đại

Hy Lạp cổ đại là một nền văn minh thuộc lịch sử của Hy Lạp kéo dài từ khoảng thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 6 CN. Thời kỳ này đánh dấu sự hình thành và phát triển của các thành bang Hy Lạp, bao gồm Athens, Sparta, Corinth, và Thebes. Các thành bang Hy Lạp phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa và chính trị.

Thời kỳ Hy Lạp bắt nguồn từ khoảng thế kỷ 8 TCN, khi các thành bang Hy Lạp bắt đầu hình thành và phát triển. Các thành bang Hy Lạp nằm rải rác trên khắp bán đảo Hy Lạp và các đảo xung quanh. Các thành bang Hy Lạp có nền kinh tế phát triển, dựa trên nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Các thành bang Hy Lạp cũng có nền văn hóa rực rỡ, với nhiều thành tựu nổi bật trong các lĩnh vực nghệ thuật, triết học, khoa học và chính trị.

Thời kỳ Hy Lạp có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử thế giới. Thời kỳ này đã sản sinh ra nhiều thành tựu văn minh có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn minh phương Tây.

Nguồn gốc Hy Lạp cổ đại

nguon-goc-hy-lap-co-dai

Nguồn gốc của Hy Lạp cổ đại là một vấn đề phức tạp và vẫn còn nhiều tranh cãi. Có hai giả thuyết chính về nguồn gốc của người Hy Lạp cổ đại:

Giả thuyết Địa Trung Hải cho rằng người Hy Lạp cổ đại là hậu duệ của các cư dân bản địa ở bán đảo Hy Lạp và các đảo xung quanh. Giả thuyết này dựa trên những bằng chứng khảo cổ học cho thấy có sự hiện diện của con người ở khu vực này từ thời tiền sử.

Giả thuyết Aegean cho rằng người Hy Lạp cổ đại là hậu duệ của những người di cư đến từ vùng Tiểu Á. Giả thuyết này dựa trên những bằng chứng ngôn ngữ học và văn hóa cho thấy có mối liên hệ giữa người Hy Lạp cổ đại và người Minoan và Mycenaean, những nền văn minh cổ đại ở vùng Tiểu Á.

Hiện nay, các nhà khoa học ngày càng ủng hộ giả thuyết Địa Trung Hải. Họ cho rằng người Hy Lạp cổ đại là hậu duệ của các cư dân bản địa ở bán đảo Hy Lạp và các đảo xung quanh, nhưng họ cũng tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa từ những người di cư đến từ vùng Tiểu Á.

Dưới đây là một số bằng chứng ủng hộ giả thuyết Địa Trung Hải:

  • Những bằng chứng khảo cổ học cho thấy có sự hiện diện của con người ở khu vực này từ thời tiền sử. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những công cụ bằng đá và đồ gốm từ thời đồ đá cũ và đồ đá mới ở bán đảo Hy Lạp và các đảo xung quanh.
  • Những bằng chứng ngôn ngữ học cho thấy có mối liên hệ giữa tiếng Hy Lạp cổ đại và các ngôn ngữ khác ở khu vực Địa Trung Hải. Ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại có nhiều điểm tương đồng với tiếng Phrygia, tiếng Hittite, và tiếng Luwian, những ngôn ngữ được sử dụng ở vùng Tiểu Á.
  • Những bằng chứng văn hóa cho thấy có sự tương đồng giữa văn hóa Hy Lạp cổ đại và văn hóa của các nền văn minh cổ đại ở vùng Tiểu Á. Ví dụ, cả người Hy Lạp cổ đại và người Minoan đều xây dựng những cung điện lớn, và cả hai nền văn minh đều có chữ viết.

Tuy nhiên, giả thuyết Aegean vẫn còn những bằng chứng ủng hộ. Ví dụ, người Hy Lạp cổ đại gọi mình là Hellenes, một từ có nguồn gốc từ vùng Tiểu Á. Ngoài ra, những câu chuyện thần thoại Hy Lạp cổ đại thường kể về những người anh hùng đến từ vùng Tiểu Á.

Vì vậy, nguồn gốc của người Hy Lạp cổ đại vẫn còn là một vấn đề chưa có lời giải đáp cuối cùng.

Các thời kỳ lớn của lịch sử Hy Lạp cổ đại

cac-thoi-ky-lon-cua-lich-su-hy-lap-co-dai

*Văn minh Cret – Myxen (Thiên niên kỷ III – thiên niên kỷ II TCN)

+ Cret là tên một hòn đảo phía Nam biển Ê-giê, từng tồn tại một nền văn minh cổ x­ưa, từ khoảng thiên niên kỷ III đến cuối thiên niên kỷ II TCN. Myxen là một tên một vùng đất trên bán đảo Pelopones, Nam Hy Lạp, có nền văn minh tồn tại từ khoảng cuối thiên niên kỷ III đến cuối thiên niên kỷ II TCN. Ngư­ời ta gọi chung là văn minh Cret – Myxen, bởi chúng có những điểm tương đồng cơ bản, là nền văn minh mở đầu trong lịch sử Hy Lạp.

+ Cư­ dân của văn minh Cret – Myxen làm nông nghiệp là chủ yếu, đồng thời cũng phát triển thủ công nghiệp và hoạt động buôn bán.

+ Cret – Myxen là một nền văn minh của xã hội có giai cấp và nhà nước, cũng giống như­ văn minh phư­ơng Đông cổ đại, bị tàn tạ vào thiên niên kỷ II TCN, cùng với những cuộc thiên di của các tộc ng­ời Hi Lạp từ phía Bắc tràn xuống, chinh phục và định c­ư. Văn minh Cret – Myxen là nền văn minh mở đầu của lịch sử Hi Lạp, nh­ưng nền văn minh tiếp theo đó không tiếp nối thành tựu của nó.

* Thời đại Hôme (Homère) trong lịch sử Hy Lạp (thế kỷ XI –  IX TCN)

+ Thời đại Hôme (vì giai đoạn lịch sử này được phản ánh chủ yếu trong hai sử thi – anh hùng ca Iliát và Ôđixê tương truyền do Hôme sáng tác) là thời kỳ tan rã của xã hội thị tộc – bộ lạc trong cộng đồng những tộc người Hy Lạp (Đôrien và Iônien) thiên di từ phía Bắc xuống.

+ Cư dân thời đại Hôme sống định cư trên các vùng của lục địa Hy Lạp và các hòn đảo xung quanh, chủ yếu làm nông nghiệp và chăn nuôi, cùng với đó là hoạt động thủ công nghiệp.

+ Chế nộ nô lệ sơ khai đã ra đời song mang nặng tính chất nô lệ gia trưởng, có nhiều nét giống với xã hội cổ đại phương Đông.

* Thời kỳ xuất hiện và phát triển lên đến đỉnh cao của xã hội có giai cấp, nhà nước trong lịch sử Hy Lạp (thế kỷ VIII – V TCN)

+ Sau thời đại Hôme, Hy Lạp bư­ớc vào giai đoạn hình thành và phát triển xã hội có giai cấp và nhà nước. Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, các thành bang Hy Lạp dần hình thành và phát triển, nổi bật là Xpác (Sparte) và Aten (Athen). Sau chiến tranh với đế quốc Ba Tư­ (thế kỷ V TCN), các thành bang Hy Lạp đạt tới sự phát triển đỉnh cao, trong đó Aten trở thành trung tâm của nền văn minh Hy Lạp, thể hiện đầy đủ những đặc tr­ưng và đỉnh cao của xã hội Hy Lạp thời cổ đại.

+ Chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành và phát triển, nền kinh tế Hy Lạp cổ đại dựa trên cơ sở của nó, với hoạt động chính là thủ công nghiệp và mậu dịch hàng hải. Các thành bang Hy Lạp trở thành trung tâm văn minh thời cổ đại với những thành tựu rực rỡ chư­a từng có tr­ước đó.

+ Vào cuối thế kỷ V TCN, những cuộc chiến tranh trong nội bộ các thành bang Hy Lạp đã dẫn tới sự suy thoái của họ, dẫn đến sự thống trị của đế quốc Makêđônia (Macédonia) từ cuối thế kỷ IV TCN.

* Hy Lạp trong thời kỳ thống trị của Makêđônia –  Thời kỳ “Hy Lạp hóa” (từ năm 334 đến năm 30 TCN):

+ Cuối thế kỷ IV, quốc gia Makêđônia ở miền Bắc Hy Lạp trở nên c­ường thịnh sau khi tiếp thu văn hóa Hy Lạp, chinh phục hầu hết các thành bang Hy Lạp, đến thời Alếchxanđrơ (Alexandre), trở thành một đế quốc lớn, thống trị nhiều vùng đất ở Đông Nam Âu, Tây Á và Bắc Phi. Nh­ưng đế quốc đó mau chóng tan rã sau khi chết (năm 323 TCN)

+ Thời kỳ này, các thành bang Hy Lạp suy thoái,  như­ng văn hóa Hy Lạp được truyền bá rộng rãi trong lãnh thổ của đế quốc Makêđônia , vậy nên gọi là thời kỳ “Hy Lạp hóa”.

+ Trong khi đó nhà nước Roma ở bán đảo Italia không ngừng phát triển và đã chinh phục hầu hết lãnh thổ của Hy Lạp.

Lịch sử Hy Lạp cổ đại

lich-su-hy-lap-co-dai

Lịch sử thời Hy Lạp cổ đại có thể chia thành ba giai đoạn chính:

Thời kỳ Cổ đại (800-500 TCN)

Thời kỳ Cổ đại là giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hy Lạp cổ đại. Giai đoạn này bắt đầu từ khoảng thế kỷ 8 TCN, khi các thành bang Hy Lạp bắt đầu hình thành và phát triển. Các thành bang Hy Lạp nằm rải rác trên khắp bán đảo Hy Lạp và các đảo xung quanh. Các thành bang Hy Lạp có nền kinh tế phát triển, dựa trên nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Các thành bang Hy Lạp cũng có nền văn hóa rực rỡ, với nhiều thành tựu nổi bật trong các lĩnh vực nghệ thuật, triết học, khoa học và chính trị.

Một số thành bang Hy Lạp nổi tiếng trong thời kỳ này bao gồm Athens, Sparta, Corinth, và Thebes. Athens là một thành bang hùng mạnh, với nền văn hóa và khoa học phát triển rực rỡ. Sparta là một thành bang nổi tiếng về quân sự, với hệ thống giáo dục và huấn luyện quân sự nghiêm khắc. Corinth là một thành bang thương mại quan trọng, nằm ở vị trí chiến lược trên eo biển Corinth. Thebes là một thành bang hùng mạnh, từng đánh bại Sparta trong trận Leuctra năm 371 TCN.

Thời kỳ Cổ điển (500-338 TCN)

Thời kỳ Cổ điển là giai đoạn đỉnh cao của lịch sử Hy Lạp cổ đại. Giai đoạn này bắt đầu từ khoảng thế kỷ 5 TCN, với sự khởi đầu của Chiến tranh Peloponnesian giữa Athens và Sparta. Thời kỳ Cổ điển chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật, triết học, khoa học và chính trị ở Hy Lạp.

Trong lĩnh vực nghệ thuật, thời kỳ Cổ điển được đặc trưng bởi sự cân đối, hài hòa và vẻ đẹp của hình thể con người. Các tác phẩm nghệ thuật Hy Lạp cổ đại nổi tiếng bao gồm tượng thần Vệ nữ của Milo, tượng thần Zeus ở Olympia, và tượng thần Poseidon ở Cape Artemisium.

Trong lĩnh vực triết học, thời kỳ Cổ điển chứng kiến sự ra đời của các trường phái triết học lớn, bao gồm Socrates, Plato và Aristotle. Các triết gia Hy Lạp cổ đại đã đặt nền móng cho sự phát triển của triết học phương Tây.

Trong lĩnh vực khoa học, thời kỳ Cổ điển chứng kiến nhiều thành tựu quan trọng, bao gồm toán học, vật lý, thiên văn học và y học. Các nhà khoa học Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều khám phá quan trọng, vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.

Trong lĩnh vực chính trị, thời kỳ Cổ điển chứng kiến sự phát triển của nền dân chủ ở Athens. Athens là thành bang đầu tiên trên thế giới áp dụng nền dân chủ.

Thời kỳ Hy Lạp hóa (338-31 TCN)

Thời kỳ Hy Lạp hóa là giai đoạn cuối cùng của lịch sử Hy Lạp cổ đại. Giai đoạn này bắt đầu từ khoảng thế kỷ 4 TCN, với sự chinh phục Hy Lạp của Alexander Đại đế.

Alexander Đại đế là một nhà lãnh đạo tài ba, đã chinh phục một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Hy Lạp đến Ấn Độ. Sự chinh phục của Alexander Đại đế đã dẫn đến sự lan truyền của nền văn minh Hy Lạp sang các vùng đất mới.

Thời kỳ Hy Lạp hóa chứng kiến sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp ở các vùng đất mới. Các thành phố Hy Lạp được xây dựng ở khắp nơi, và nền văn hóa Hy Lạp có ảnh hưởng sâu sắc đến các nền văn minh khác.

Điều kiện tự nhiên

dieu-kien-tu-nhien-lich-su-hy-lap-co-dai

Địa lý, địa hình

Hy Lạp cổ đại bao gồm miền lục địa Hy Lạp (Nam bán đảo Ban Căng), miền đất ven bờ biển Tiểu Á và những đảo thuộc biển Êgiê. Miền lục địa Hy Lạp có tầm quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp, chia làm 3 miền : Bắc, Trung và Nam Hy Lạp. Vùng đất liền ven bờ Tiểu Á trù phú, là cầu nối thế giới Hy Lạp với các nền văn minh cổ đại phương Đông

Bờ biển Hy Lạp : phía Tây gồ ghề, lởm chởm, không tiện cho xây cảng, nhưng phía Đông lại khúc khuỷu, hình răng cưa, có nhiều vịnh, nhiều cảng tự nhiên, an toàn và thuận lợi cho tàu thuyền neo đậu, di chuyển. Hy Lạp có nhiều đảo trên biển Êgiê, là nơi dừng chân của các tàu thuyền, tạo cầu nối giữa lục địa Hy Lạp với miền Tiểu Á. Khi các tàu thuyền di chuyển trên biển Êgiê, khoảng cách với đất liền và đảo luôn không lớn.

Đất đai Hy Lạp nhìn chung kém màu mỡ, chỉ có một số vùng đồng bằng không lớn lắm.

Hy Lạp cổ đại bao gồm miền lục địa Hy Lạp (Nam bán đảo Ban Căng), miền đất ven bờ biển Tiểu Á và những đảo thuộc biển Êgiê. Miền lục địa Hy Lạp có tầm quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp, chia làm 3 miền : Bắc, Trung và Nam Hy Lạp. Miền Bắc gồm vùng rừng núi phía Tây và đồng bằng Tétxali phía Đông, ngăn cách với miền Trung bởi đèo Técmôphin hiểm trở ; miền Trung có nhiều rừng núi chạy dọc ngang, chia cắt lãnh thổ thành nhiều khu vực địa lý nhỏ, tách biệt với nhau, nối với miền Nam – bán đảo Pêlôpône bởi eo Côrinh ; bán đảo Pêlôpône trù phú, với nhiều đồng bằng như Lacôni, Métxêni, Ácgôlít. Vùng đất liền ven bờ Tiểu Á trù phú, là cầu nối thế giới Hy Lạp với các nền văn minh cổ đại phương Đông

Bờ biển Hy Lạp : phía Tây gồ ghề, lởm chởm, không tiện cho xây cảng, nhưng phía Đông lại khúc khuỷu, hình răng cưa, có nhiều vịnh, nhiều cảng tự nhiên, an toàn và thuận lợi cho tàu thuyền neo đậu, di chuyển. Bờ biển Tây Tiểu Á cũng thuận lợi cho tàu thuyền như vậy. Hy Lạp có nhiều đảo trên biển Êgiê, là nơi dừng chân của các tàu thuyền, tạo cầu nối giữa lục địa Hy Lạp với miền Tiểu Á. Khi các tàu thuyền di chuyển trên biển Êgiê, khoảng cách với đất liền và đảo luôn không lớn.

Đất đai Hy Lạp nhìn chung kém màu mỡ, chỉ có một số vùng đồng bằng không lớn lắm. Do vậy, hoạt động trồng trọt cây lương thực không có điều kiện như ở phương Đông, song đất đai đó hợp với cây Ôliu lấy dầu và cây nho làm rượu. Đất đai một số vùng lại phù hợp cho việc sản xuất đồ gốm tốt, trong khi khoáng sản phong phú, như đồng, sắt, bạc, vàng…cùng nhiều rừng gỗ quý.

Hy Lạp cổ đại bao gồm miền lục địa (Nam bán đảo Ban Căng), đất ven bờ biển Tiểu Á, và các đảo biển Êgiê. Miền lục địa được chia thành Ba khu vực: Bắc, Trung và Nam Hy Lạp. Bắc có vùng rừng núi và đồng bằng Tétxali; Trung có rừng núi chạy ngang, chia cắt thành nhiều khu vực địa lý nhỏ; Nam là bán đảo Pêlôpône với đồng bằng như Lacôni, Métxêni, Ácgôlít. Đất đai kém mỡ, phù hợp cho việc trồng Ôliu và nho. Bờ biển phía Đông và Tây có định hình khác nhau, với phía Đông có nhiều vịnh và cảng tự nhiên thuận lợi cho thương thuyền. Các đảo trên biển Êgiê là cầu nối giữa lục địa Hy Lạp và Tiểu Á, tạo điều kiện thuận lợi cho di chuyển và giao thương. Đất đai phù hợp cho sản xuất đồ gốm và khoáng sản đa dạng như đồng, sắt, bạc, vàng.

Điều kiện tự nhiên

Điều kiện tự nhiên đó tạo nên khuynh hướng phát triển kinh tế thủ công nghiệp và buôn bán bằng đường biển hơn là làm nông nghiệp của cư dân. Khuynh hướng này là cơ sở của nền văn minh có nhiều điểm khác biệt so với phương Đông. Mặt khác, điều kiện đất đai cũng khiến cho việc canh tác gặp khó khăn, nên chỉ tới thời đại đồ sắt, cư dân nơi đây mới tạo được sự chuyển biến mạnh trong sản xuất. Do vậy, nền văn minh xuất hiện muộn so với phương Đông, trừ trường hợp văn minh Cret-Myxen, nền văn minh biển – đảo, có nhiều nét giống với văn minh phương Đông cổ đại.

Thuộc địa

Trong thời kỳ cổ xưa, dân số của Hy Lạp cổ đại đã tăng đột ngột, vượt quá khả năng canh tác của đất có hạn. Theo ước tính, dân số tăng từ 800.000 vào khoảng 800 TCN lên đến khoảng 10-13 triệu vào 400 TCN. Từ khoảng 750 TCN, người Hy Lạp bắt đầu một thời kỳ mở rộng kéo dài 250 năm, xây dựng các thuộc địa trải rộng về mọi hướng. Bờ biển Aegea, Cyprus, Thrace, vùng biển Marmara, và bờ biển phía nam Biển Đen trở thành những thuộc địa quan trọng đầu tiên.

Chủ quyền của Hy Lạp mở rộng về phía tây với bờ biển Illyria, Sicilia, miền Nam Ý, và thậm chí phía đông bắc Tây Ban Nha. Đến cuối thời kỳ, thuộc địa Hy Lạp đã đến tận phía đông bắc, từ Ukraine đến Nga ngày nay (Taganrog). Các thành phố như Syracuse, Napoli, Marseille và Istanbul ngày nay đã bắt đầu là những thuộc địa Hy Lạp với tên gốc Syracusae, Neapolis, Massalia và Byzantion. Những thuộc địa này đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá ảnh hưởng của Hy Lạp trên khắp châu Âu và hỗ trợ trong việc phát triển mạng lưới kinh doanh khoảng cách dài, thúc đẩy nền kinh tế của Hy Lạp.

Chính trị – xã hội thời kỳ Hy Lạp

chinh-tri-xa-hoi-thoi-ky-hy-lap

Chính trị thời kỳ Hy Lạp

So với hầu hết các xã hội đương thời khác với một bộ tộc hoặc một vương quốc cai trị một vùng lãnh thổ tương đối lớn thì Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều hơn hoặc ít hơn hàng trăm thành bang độc lập (polei). Vị trí địa lý của Hy Lạp được chia cắt và phân chia bởi những ngọn đồi, núi và con sông góp phần vào tính rời rạc của Hy Lạp cổ đại.

Người Hy Lạp cổ đại đã không có nghi ngờ rằng họ là “một dân tộc, họ có cùng tôn giáo, văn hóa cơ bản giống nhau, và cùng một ngôn ngữ. Hơn nữa, người Hy Lạp đã rất ý thức về nguồn gốc bộ lạc của họ, Herodotus đã có thể để phân loại rộng rãi các thành bang theo bộ lạc. Tuy nhiên, mặc dù những mối quan hệ cao hơn này tồn tại, chúng dường như hiếm khi có một vai trò quan trọng trong chính trị Hy Lạp. 

Sự độc lập của những poleis được bảo vệ rất mãnh liệt, thống nhất đất nước là một cái gì đó hiếm khi có trong dự tính của người Hy Lạp cổ đại. Đặc trưng của hệ thống chính trị Hy Lạp cổ đại là tính rời rạc và tập trung vào các trung tâm thành thị trong số các quốc gia nhỏ bé khác.

Các đặc thù của hệ thống Hy Lạp tiếp tục chứng minh bằng các thuộc địa mà họ thiết lập trên khắp vùng biển Địa Trung Hải, mặc dù chúng có thể coi như một Polis Hy Lạp nhất định như thành bang ‘mẹ’ của chúng(và vẫn có cảm tình với nó), chúng đã là một thành bang hoàn toàn độc lập. 

Tính độc lập của poleis được thể hiện rõ trong việc chúng thiết lập các thuộc địa mà không cảm thấy bị ràng buộc. Mặc dù có những cố gắng liên minh trong cuộc chiến tranh với người Ba Tư, sự trung lập vẫn tồn tại, và sau chiến thắng, các poleis vẫn giữ độc lập. Các liên minh thường giảm bớt trong thời kỳ cổ điển, nhường chỗ cho sự thống trị của một thành phố lớn như Athen, Sparta hoặc Thebes. Các poleis thường tham gia liên minh do áp đặt của chiến tranh hoặc hiệp ước hòa bình.

Ngay cả sau khi Philippos II của Macedonia chiếm giữ phần trung tâm của Hy Lạp, ông không cố gắng hợp nhất vùng đó thành một tỉnh mới mà chỉ bắt buộc các poleis tham gia Liên minh Corinth dưới sự đe dọa chiến tranh. Tính đặc thù của hệ thống chính trị Hy Lạp tiếp tục phản ánh trong sự tồn tại của các poleis nhỏ và độc lập, ít khi bị thống trị trực tiếp bởi thành bang láng giềng lớn hơn.

Xã hội thời kỳ Hy Lạp

xa-hoi-thoi-ky-hy-lap

Những nét đặc trưng của xã hội Hy Lạp cổ đại là sự chia phân chia giữa người tự do và nô lệ, vai trò khác nhau giữa nam giới và nữ giới, sự ít phân biệt địa vị xã hội dựa trên gốc gác ra đời, và sự quan trọng của tôn giáo. Lối sống của người Athena là phổ biến trong thế giới Hy Lạp so với chế độ đặc biệt của Sparta.

Cấu trúc xã hội

Trong xã hội Hy Lạp cổ đại, chỉ những người tự do mới có quyền làm cư dân thành phố và được bảo vệ đầy đủ bởi luật pháp trong một thành-bang. Tuy nhiên, sự nổi trội xã hội không tạo ra những đặc quyền đặc biệt. Tại Athena, dân chúng được phân tầng dựa trên giàu có, có thể thay đổi tầng lớp nếu có nhiều tiền hơn. Tại Sparta, tất cả nam công dân được xác định là “bình đẳng” nếu họ hoàn thành học vấn của mình. Tuy vậy, các vua người Sparta lãnh đạo tôn giáo và quân đội của thành bang thường đến từ hai gia đình khác nhau.

Nô lệ không có quyền lực và địa vị. Họ có quyền có gia đình và tài sản riêng, tuy nhiên không có quyền chính trị. Năm 600 TCN chế độ chiếm hữu nô lệ đã trải rộng khắp Hy Lạp. Đến thế kỷ thứ V TCN, nô lệ chiếm đến một phần ba số dân ở một số thành bang. Hầu hết các gia đình đều sở hữu nô lệ làm người giúp việc nhà và lao động, thậm chí những gia đình nghèo cũng có thể sở hữu một hoặc hai nô lệ. Những người sở hữu thường hứa trả tự do cho nô lệ trong tương lai để khuyến khích làm việc chăm chỉ hơn.

Nô lệ được trả tự do tại Hy Lạp không thể trở thành công dân thành phố mà thay vào đó gia nhập các metic, được phép sống trong thành bang nhưng không có quyền lợi chính trị. Cả các thành bang cũng có luật pháp cho phép sở hữu nô lệ, nhưng nô lệ cộng đồng có sự độc lập hơn và thường được đào tạo để làm những công việc chuyên môn. Sparta có nhóm nô lệ đặc biệt gọi là helot, là tù nhân của cuộc chiến do các thành bang sở hữu và chúng thường trải qua đối xử khắc nghiệt.

Lối sống

Người Hy Lạp cổ đại sống trong các thành-bang và những ngôi nhà đơn giản, chia thành các phòng ngủ, phòng chứa đồ đạc và bếp. Hộ gia đình thường bao gồm cha mẹ và con cái, sống trong làng nhỏ hoặc nông trại ở vùng nông thôn. Nữ giới quản lý chi tiêu và nô lệ, trong khi nam giới làm nông và buôn bán.

Đàn ông giàu có có thể tổ chức tiệc uống. Thức ăn đơn giản, chủ yếu là cháo lúa mạch và thịt thường ít, trừ khi được phân phối miễn phí từ các lễ hội thành bang. Trang phục quấn đơn giản với hoạ tiết nhiều màu, đàn ông và phụ nữ đều đeo đồ trang sức.

Thuốc men hạn chế, và đối với sức khỏe, người ta thường tập luyện tại gymnasium và tham gia các lễ hội nghệ thuật và thể thao. Hippocrates đã tách biệt mê tín với y học. Cuộc sống xã hội tập trung vào các lễ hội và cuộc đua tranh tài trong âm nhạc, ca kịch và văn thơ, thường được tổ chức tại các thành bang và các địa điểm lễ hội lớn.

Kinh tế

Ở thời đỉnh cao kinh tế, trong thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 4 TCN, Hy Lạp cổ đại là nền kinh tế tiên tiến nhất trên thế giới. Theo một số nhà sử học kinh tế, nó là một trong những nền kinh tế tiền công nghiệp phát triển nhất. Điều này được chứng minh bởi mức lương trung bình hàng ngày của người lao động Hy Lạp là 12 kg lúa mì. Con số này cao gấp 3 lần mức lương trung bình hàng ngày của một người lao động Ai Cập trong thời kỳ La Mã, chỉ khoảng 3,75 kg.

Giáo dục

Trong phần lớn lịch sử Hy Lạp, giáo dục là tư thục, ngoại trừ ở Sparta. Trong suốt thời kỳ Hy Lạp hoá, một số thành-bang mở các trường công. Chỉ có các gia đình khá giả mới mời được thầy về nhà. Con trai được học đọc, viết và trích giảng văn học. Họ cũng được học hát và chơi một thứ nhạc cụ cũng như được huấn luyện để trở thành vận động viên và phục vụ quân đội. Họ học không phải để có việc làm mà để trở thành một công dân hữu ích. Con gái cũng học đọc, học viết và số học để có thể quản lý được gia đình. Họ gần như không bao giờ được học tiếp sau thời niên thiếu.

Một số ít nam thanh niên tiếp tục học sau thời niên thiếu. Khi còn là thiếu niên thì họ học triết học với chức năng là môn học hướng dẫn cách sống, và thuật hùng biện để có thể nói năng thuyết phục người khác khi ở trong nghị trường. Vào thời kỳ Cổ điển, việc đào tạo như thế này là cần thiết cho một thanh niên có tham vọng.

Một phần quan trọng trong giáo dục của một thiếu niên giàu có là một sự hướng dẫn với một người cao tuổi, mà ở một vài nơi và thời gian có thể bao gồm cả tình yêu quan hệ yêu đương thầy trò với một người lớn tuổi.

Người thiếu niên học bằng cách quan sát thầy mình thuyết trình về chính trị ở trong chợ, đồng thời giúp thầy tiến hành những nghĩa vụ cộng đồng, tập luyện thể thao và tham dự tiệc tùng với thầy. Những sinh viên có khả năng có thể tiếp tục việc học tại các trường trung học, rồi đến học đại học ở một thành phố lớn.

Những trường đại học này do các giáo sư nổi tiếng tổ chức. Hai trong số những trường đại học lớn nhất của Athena là Lyceum (trường Peripatetic được thành lập bởi Aristoteles) và Học viện Platon (được thành lập bởi Platon). Hệ thống giáo dục của người Hy Lạp cổ đại giàu có còn được gọi là Paideia.

Tác giả: