Nguyễn Thị Bình là một trong những nữ chính khách nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam, ghi dấu ấn sâu sắc qua những đóng góp to lớn cho cuộc đấu tranh giành độc lập và phát triển ngoại giao của đất nước. Với vai trò quan trọng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và là nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, bà đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người dân và lịch sử dân tộc. Hãy cùng yeulichsu.edu.vn tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp đáng tự hào của bà Nguyễn Thị Bình qua bài viết này.
Tiểu sử của bà Nguyễn Thị Bình
Nguyễn Thị Bình tên khai sinh là Nguyễn Thị Châu Sa sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc An Hiệp, Châu Thành, Đồng Tháp). Cha bà, ông Nguyễn Đồng Hợi, quê gốc tại Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam, và mẹ bà là Phan Thị Châu Lan, con gái của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, ông Nguyễn Đồng Hợi làm tham tá công chánh và gia đình cư trú tại Phnôm Pênh, Campuchia. Nhờ vậy, Châu Sa có cơ hội học tiếng Pháp và hoàn thành bậc tú tài I tại trường Lycée Sisowath, một trong những trường lớn ở Đông Dương thời đó.
Năm 1944, khi Châu Sa 17 tuổi, mẹ bà qua đời. Bà trở về Việt Nam và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên học sinh, bao gồm cứu tế và tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ vào cuối năm 1945, cha bà theo lời kêu gọi của Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ ra chiến khu, trong khi bà ở lại chăm sóc các em và hoạt động bí mật cho Việt Minh, lấy bí danh là Yến Sa.
Năm 1948, Châu Sa gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Đến năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt và giam giữ tại bót Catinat, sau đó bị chuyển đến Khám Lớn Sài Gòn và Khám Chí Hòa từ năm 1951 đến 1953.
Ra tù năm 1954, bà tham gia phong trào hòa bình đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được điều động ra Bắc và tiếp tục được đào tạo theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
Hành trình hoạt động cách mạng và ngoại giao
Năm 1960, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh dấu một cột mốc quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập. Đến năm 1962, bà Nguyễn Thị Châu Sa, với tên mới là Nguyễn Thị Bình, được điều trở lại miền Nam. Bà đảm nhận vai trò Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, tập trung vào hoạt động đối ngoại và giữ chức Phó Tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng.
Năm 1963, bà Nguyễn Thị Bình đến Trung Quốc và được Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón. Cuối năm 1968, bà được chỉ định làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng tại Hội nghị Paris về Việt Nam. Đầu năm 1969, bà trở về nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nhường vị trí Trưởng đoàn đàm phán cho ông Trần Bửu Kiếm.
Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà Nguyễn Thị Bình trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Bà tiếp tục dẫn đầu đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời tại Paris. Từ năm 1968 đến 1972, bà gây ấn tượng mạnh mẽ trong các cuộc họp báo tại Hội nghị 4 bên ở Paris và được giới truyền thông quốc tế biết đến với biệt danh Madame Bình.
Khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, bà Nguyễn Thị Bình là đại diện của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký kết Hiệp định. Bà là nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên trong lịch sử ngành ngoại giao Việt Nam, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân và trên trường quốc tế.
Tóm tắt quá trình công tác của bà Nguyễn Thị Bình
Giai đoạn tham gia kháng chiến và hoạt động cách mạng (1945-1954)
- 8/1945 – 01/1946: Tham gia phong trào quần chúng giành chính quyền tại Sài Gòn. Bắt đầu kháng chiến, tham gia tiếp tế và vận chuyển vũ khí ra chiến khu cho Chi đội I Miền Đông.
- 02/1946 – 6/1947: Uỷ viên Ban Chấp hành Phụ nữ cứu quốc, hộ 5, Quận 3, Sài Gòn – Chợ Lớn.
- 7/1947 – 6/1951: Thư ký, sau đó là Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc thành Sài Gòn, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ Sài Gòn – Chợ Lớn. Tham gia mặt trận Liên – Việt, vận động thanh niên, trí thức.
- 7/1951 – 12/1954: Bị địch bắt giam ở khám Chí Hòa, là Chi ủy viên Chi bộ nhà tù Chí Hòa. Ra tù, tiếp tục hoạt động trong phong trào hòa bình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954.
Giai đoạn hoạt động chính trị và học tập (1955-1968)
- 01/1955 – 1957: Cán bộ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương.
- 1957 – 1959: Học lý luận chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc.
- 1959 – 1962: Trưởng ban Phúc lợi, Đảng đoàn Phụ nữ Trung ương.
- 7/1962 – 12/1968: Ủy viên Trung ương phụ trách công tác đối ngoại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Giai đoạn hoạt động ngoại giao và chính trị cấp cao (1969-1992)
- 01/1969 – 6/1976: Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris (1968-1973).
- 7/1976 – 6/1987: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên Trung ương Đảng khóa 5.
- 7/1987 – 8/1992: Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Giai đoạn phục vụ trong vai trò phó chủ tịch nước và sau khi nghỉ hưu (1992 – nay)
- 9/1992 – 8/2002: Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Tháng 9/2002: Nghỉ hưu.
- 2003 đến nay: Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Bình không chỉ là một nhân vật lịch sử quan trọng mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và tài năng của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Những đóng góp to lớn của bà cho sự nghiệp cách mạng và ngoại giao đã để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ mai sau. yeulichsu.edu.vn hy vọng rằng, qua bài viết này, bạn đọc sẽ hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của bà Nguyễn Thị Bình, từ đó thêm tự hào và trân trọng những giá trị lịch sử của dân tộc.