Nền văn minh Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh lâu đời nhất và phát triển nhất trên thế giới. Nền văn minh này đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, từ khoa học, công nghệ, nghệ thuật, kiến trúc đến tôn giáo, triết học. Dưới đây là những thành tựu nổi bật của nền văn minh Ấn Độ cổ đại:
Văn học Ấn Độ cổ đại là một nền văn học phong phú và đa dạng, với nhiều thể loại, bao gồm sử thi, ca dao, tục ngữ,… Văn học Ấn Độ cổ đại đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học của các nước Đông Nam Á, Trung Quốc và Trung Đông.
Sử thi là thể loại văn học nổi bật nhất của văn học Ấn Độ cổ đại. Hai sử thi nổi tiếng nhất của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata.
Ca dao, tục ngữ là một phần quan trọng của văn học Ấn Độ cổ đại. Ca dao, tục ngữ Ấn Độ cổ đại phản ánh đời sống tinh thần và vật chất của người dân Ấn Độ thời xưa.
Văn học Ấn Độ cổ đại là một di sản quý giá của nhân loại. Những tác phẩm văn học này đã góp phần lưu giữ và truyền bá văn hóa và tinh thần của người dân Ấn Độ.
Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh có những thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực toán học. Người Ấn Độ cổ đại đã phát triển nhiều khái niệm và thuật toán toán học quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của toán học thế giới.
Những thành tựu nổi bật của toán học Ấn Độ cổ đại bao gồm:
Hệ thống số thập phân: Ấn Độ cổ đại là nơi phát minh ra hệ thống số thập phân, được sử dụng phổ biến trên thế giới ngày nay. Hệ thống số thập phân sử dụng 10 chữ số cơ bản: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9.
Các thuật toán phức tạp: Người Ấn Độ cổ đại đã phát triển các thuật toán phức tạp, như phép chia, phép nhân, phép khai căn,… Các thuật toán này đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại, đo lường và xây dựng.
Các định lý và khái niệm toán học: Người Ấn Độ cổ đại đã phát triển nhiều định lý và khái niệm toán học quan trọng, bao gồm:
Những thành tựu toán học của Ấn Độ cổ đại đã được truyền bá sang các nước Trung Đông và châu Âu, góp phần thúc đẩy sự phát triển của toán học thế giới.
Một số nhà toán học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại:
Y học Ấn Độ cổ đại là một nền y học phát triển, với nhiều thành tựu nổi bật. Người Ấn Độ cổ đại đã biết về nhiều loại thuốc thảo dược, phẫu thuật, và đã phát triển các phương pháp trị liệu hiệu quả.
Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử. Người sáng lập trường phái triết học Vaisêsica là Canađa cho rằng vạn vật do các nguyên tử tạo nên, nhưng vật chất sở dĩ khác nhau là do mỗi loại có một thứ nguyên tử khác với loại khác. Còn các nhà triết học đạo Giainơ (Jain) thì cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau, chỉ có các tổ hợp khác nhau mà thôi.Người Ấn Độ cổ đại cũng đã biết được sức hút của quả đất. Sách Siddhantas viết vào thế kỷ V TCN đã ghi rằng: ” Quả đất, do trọng lực của nó, hút tất cả mọi vật về nó”.
Ấn Độ là cái nôi của những tôn giáo như: Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Jaina giáo..Trong đó hai tôn giáo lớn và có ảnh hưởng ở Ấn Độ là Phật Giáo và Ấn Độ giáo.
Đạo Bà La Môn hay còn gọi là Ấn Độ Giáo ra đời vào thế kỉ XV trước công nguyên trong hoàn cảnh có sự bất bình đẳng về đẳng cấp và Đạo Phật ra đời như là sự chứng minh cho sự hợp lý của tình trạng bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 1 trước công nguyên do thái tử Xidacta Gotama (Thích ca mâu ni) khởi xướng.
Theo Phật lịch năm 544 trước công nguyên chính là năm thứ nhất Phật lịch vì họ cho rằng đây là năm Đức Phật thích ca nhập niết bàn. Giáo lý của đạo Phật là sự giác ngộ về thế giới, vô ngã, duyên khởi, Luật nhân quả. Đạo Phật cũng chính là một hệ thống của triết học bao gồm các giáo lý, tư tưởng, tư duy về nhân sinh, vũ trụ, thế giới quan, giải thích các hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội dựa trên những lời dạy của Đức Phật.
Theo giáo lý nhà Phật, Phật là một con người được giác ngộ và đã đạt được sự nhận thức đúng đắn về bản ngã và về thế giới xung quanh nên được giải thoát, do vậy ai cũng có thể trở thành Phật nếu người đó biết sử dụng trí tuệ của mình nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh thì sẽ được giải thoát. Phật Giáo không theo chủ nghĩa duy vật, cũng không theo chủ nghĩa duy tâm và khuôn mẫu của các quan điểm khác.
Đạo Jaina ra đời vào thế kỉ VI trước công nguyên. Đạo này hướng con người tới chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
Đạo Sikh xuất hiện lần đầu tiên tại Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp của giáo lý Ấn Độ giáo và giáo lý Hồi giáo. Đạo Sikh không quá tập trung về vấn đề lễ nghi, hành hương mà hướng con người tới những điều bình thường, đơn giản nhất, tin tưởng vào sự bình đẳng. Người đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và thánh địa của người đạo Sikh chính là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đây là đạo ra đời muộn nhất tại Ấn Độ.
Ấn Độ là nơi nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ có ảnh hưởng lớn tới nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Các tác phẩm nghệ thuật đa số đều phục vụ cho một tôn giáo nhất định, thể hiện những nét đặc trưng của tôn giáo đó. Ba dòng nghệ thuật chính và phổ biến đó là Ấn Độ Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo.
Xây dựng nhiều công trình kiến trúc đồ sộ độc đáo như: chùa hang A-gian-ta. Đây là dãy chùa được tạc vào vách núi với 29 gian chùa có hình vuông, trên vách hang có những bức tượng Phật và bích hoạ đẹp, ngoài ra còn có cột A-so-ca và đại bảo tháp Sanchi.
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng ở nhiều nơi trên đất Ấn Độ vào thế kỷ VII đến thế kỷ XI. Một số công trình tiêu biểu như cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn gồm 85 ngôi đền xen giữa những hồ nước và cánh đồng.
Những thành tựu của nền văn minh Ấn Độ cổ đại đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các nền văn minh khác trên thế giới. Nền văn minh này đã để lại một di sản to lớn, góp phần làm phong phú thêm nền văn minh nhân loại. Hy vọng bài viết sẽ đem đến cho bạn đọc những kiến thức bổ ích.
Address: 631 QL6, P. Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Phone: 0356154789
E-Mail: contact@yeulichsu.edu.vn