Thời tiền sử

Khám phá những con vật lớn nhất thời tiền sử

Thế giới tự nhiên là một nơi kỳ diệu và đầy bí ẩn, và thời tiền sử là một thời đại đặc biệt thú vị. Trong thời kỳ này, Trái đất là nơi sinh sống của nhiều loài động vật khổng lồ, to lớn hơn bất kỳ loài động vật nào hiện đang sống trên hành tinh.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những con vật lớn nhất thời tiền sử. Chúng ta sẽ tìm hiểu về kích thước, môi trường sống và chế độ ăn uống của chúng. Chúng ta cũng sẽ xem xét những lý do khiến chúng trở nên to lớn như vậy.

Động vật thời tiền sử là gì? 

Động vật thời tiền sử là động vật sống cách đây hơn 5.000 năm và đi đúng con đường trở lại hàng triệu năm. Mặc dù bạn sẽ tự động nghĩ về động vật thời tiền sử là “khủng long” nhưng điều đó không hoàn toàn đúng vì khủng long thực sự là một nhóm bò sát thường lớn và có chân sau kéo dài ngay bên dưới cơ thể của chúng. Tuy nhiên, động vật thời tiền sử sống trong ba thời kỳ chính trong lịch sử.

Họ sống trong các thời kỳ Paleozoi, Mesozoi và Kainozoi. Cho đến đầu kỷ Paleozoi, hầu hết các loài động vật đã sống ở biển. Tuy nhiên, trong thời kỳ này (600 triệu đến 240 triệu năm trước), các loài động vật đã phát triển để có thể sống trên cạn. Chúng bao gồm các loài bò sát , lưỡng cư và côn trùng. 

dong-vat-thoi-tien-su-la-gi-

Voi ma mút

Theo nghiên cứu, voi ma mút lông cừu đã tuyệt chủng “chỉ” 4.500 năm trước và sinh sống ở những vùng mát mẻ. Hóa thạch được tìm thấy ở các nước ở Châu Âu, Bắc Á (đặc biệt là Siberia) và Bắc Mỹ. 

Voi ma mút lớn nhất cao tới vai khoảng 14 feet và nặng tới 10 tấn. Những chiếc ngà của voi ma mút có thể dài tới khoảng 16 feet. Chúng có đặc điểm lông dài (xấp xỉ 50cm), rậm (hơn so với voi hiện tại), ngà dài và cong (hoá thạch ở Siberia có ngà dài 3,5m), răng voi ma mút rất dài, cong quặp vào trong, dài nhất tới 5 cm, chân sau ngắn nên trọng tâm toàn thân nghiêng về phía sau, vai nhô cao. Chân chỉ có 4 ngón (kém 1 ngón so với voi hiện nay), da dày.

Chúng là loài động ăn cỏ, ăn cỏ, lá và quả. Chúng sống theo bầy đàn, với một con đực đầu đàn dẫn đầu. Trong cuộc đời, loài voi ma mút lông xoăn có lẽ đã sinh sống trong các quần xã sinh vật đồng cỏ thưa. Môi trường thảo nguyên, lãnh nguyên lạnh ở Bắc bán cầu là lý tưởng để voi ma mút phát triển thịnh vượng do các nguồn thức ăn nó cung cấp. Với các đợt ấm lên trong thời kỳ băng hà thì khí hậu cũng sẽ thay đổi cảnh quan và những gì sẵn có cho voi ma mút bị thay đổi mạnh mẽ. 

voi-ma-mut

Voi ma mút tuyệt chủng vào cuối kỷ Băng hà. Một số giải thiết được đưa ra để giải thích lý do tại sao chúng tuyệt chủng như sự thay đổi khí hậu, săn bắn của con người hoặc cạnh tranh từ các loài động vật khác là nguyên nhân. Tất cả các lý do trên cũng chỉ là giả thuyết, cho đến nay người ta vẫn chưa thể đưa ra được giải thích dứt khoát tại sao voi ma mút bị tuyệt chủng.

Lợn vòi khổng lồ

Lợn vòi tên đầy đủ là Lợn vòi Mã Lai  là loài thú có hình dáng giống lợn rừng, nhưng cỡ lớn hơn và chúng có cái mõm dài như cái vòi.

Chiều dài thân của lợn từ 1,8-2,4 m, cao 90–110 cm. Trọng lượng từ 250 đến 320 kg, có khi đạt tới 400 kg. Mũi và môi trên kéo dài thành vòi ngắn. Vòi của loài này dài hơn và khỏe hơn vòi của lợn vòi Nam Mỹ. Lông ngắn, dày. Đầu, cổ, ngực và nửa thân phía trước lông màu đen. Từ ngang vai đến mông, bụng màu trắng bạc. Bốn chân, đuôi màu đen. Bàn chân trước 4 ngón, bàn chân sau 3 ngón.

Phân bố tự nhiên của chúng chủ yếu ở các khu rừng mưa Đông Nam Á, chủ yếu ở các nước: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, và chúng có phân bố ở Việt Nam.

lon-voi-khong-lo

Cá sấu Deinosuchus

Ngay cả ngày nay, cá sấu vẫn là một loài động vật to lớn và đáng sợ. Chúng được coi là hậu duệ trực tiếp của khủng long nhưng trên thực tế, có những loài cá sấu thực sự đã săn khủng long. Sống từ 80 đến 73 triệu năm trước, loài Sarcosuchus ở châu Phi và Nam Mỹ dài 11,5m và nặng 8 tấn; loài Deinosuchus ở Bắc Mỹ dài 12m, nặng 8,5 tấn; thậm chí loài Purussaurus ở đồng bằng Amazon dài tới 13m, nặng 10 tấn. Nó có hàm răng sắc nhọn, mõm dài và rộng, và lưng được phủ vảy sừng hình bán cầu dày và là một kẻ săn mồi đỉnh cao, ăn các loài động vật có vú lớn, bao gồm khủng long, bò sát và cá.

ca-sau-deinosuchus

Cá sấu Deinosuchus tuyệt chủng cùng với các loài khủng long khác vào cuối kỷ Creta. Lý do tại sao chúng tuyệt chủng vẫn chưa được biết rõ, nhưng một số giả thuyết cho rằng sự thay đổi khí hậu, thiên thạch va chạm hoặc cạnh tranh từ các loài động vật khác là nguyên nhân. Cho đến nay nó vẫn là một loài động vật vô cùng hấp dẫn các nhà khoa học và công chúng. Chúng là một phần quan trọng của lịch sử Trái đất và là nguồn cảm hứng bất tận cho trí tưởng tượng của con người.

Cá mập Megalodon

Nếu bạn nghĩ rằng cá mập hiện đại to lớn và đáng sợ, có lẽ bạn chưa nghe nói về Megalodon. Cá mập Megalodon, hay còn gọi là “răng lớn” trong tiếng Hy Lạp cổ đại, là một loài cá mập khổng lồ thuộc lớp Cá sụn đã sống cách đây khoảng 28 đến 1,5 triệu năm trước.  Loài cá mập khổng lồ này được xem là một trong những động vật có xương sống lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong lịch sử tự nhiên. 

Ước tính mới đây cho rằng loài cá mập khổng lồ này có thể đạt chiều dài 15,9 mét – nặng 51 tấn và 17,3m – nặng 65,6 tấn. Để dễ hình dung hơn, Megalodon dài hơn hẳn một chiếc xe bus hai tầng (khoảng 11 mét) và có thể nuốt chửng trọn một con cá voi Orca (cá kình) trưởng thành chỉ trong một cú đớp.

Megalodon còn có hàm răng khổng lồ, với chiếc răng lớn nhất từng được tìm thấy dài tới 18 cm. Hàm của Megalodon có thể chứa tới 276 chiếc răng, mỗi chiếc nặng gần 10 kg!

ca-map-megalodon

Lý do tại sao Megalodon tuyệt chủng vẫn là một bí ẩn. Một số giả thuyết cho rằng sự thay đổi khí hậu, cạnh tranh từ các loài động vật khác hoặc cạn kiệt nguồn thức ăn là nguyên nhân khiến chúng biến mất.

Rắn Titanoboa

Theo các nhà nghiên cứu, Titanoboa là một chi rắn từng sinh sống vào  khoảng từ 50 tới 60 triệu năm trước. Theo ước tính của các nhà cổ sinh vật học, nó có thể phát triển đạt độ dài từ 12,8m đến 14,9m và nặng tới 1.134 kg. Ngoài ra, phần dày nhất của cơ thể con rắn được cho là có đường kính là 0,9 m. Trong khi loài rắn lớn nhất hiện nay được biết đến với độ dài khoảng 6,1m và nặng 227kg. Với lợi thế về kích cỡ và kỹ thuật săn mồi đỉnh cao thì không có gì lạ khi chế độ ăn uống của nó bao gồm các loài động vật có vú lớn, bao gồm cá sấu, rùa và thậm chí cả cá voi nhỏ.

ran-titanoboa
Titanoboa tuyệt chủng cùng với nhiều loài động vật khác vào cuối kỷ Creta. Lý do tại sao chúng tuyệt chủng vẫn chưa được biết rõ, nhưng một số giả thuyết cho rằng sự thay đổi khí hậu, thiên thạch va chạm hoặc cạnh tranh từ các loài động vật khác là nguyên nhân.

Glyptodon

Glyptodon là một chi động vật có vú có vỏ bọc đã tuyệt chủng, sống từ kỷ Pleistocen (2,6 triệu đến 11.700 năm trước) ở Nam Mỹ. Chúng là một trong những loài động vật có vỏ bọc lớn nhất từng tồn tại, với chiều dài từ đầu đến đuôi lên tới 3,3 mét và nặng tới 2 tấn.

Chúng có thân hình hình bầu dục, được bao bọc bởi một lớp vỏ bọc cứng chắc. Vỏ bọc này được tạo thành từ các tấm xương sụn xếp chồng lên nhau, được kết nối với nhau bằng các khớp nối linh hoạt. Vỏ bọc này giúp bảo vệ Glyptodon khỏi những kẻ săn mồi, bao gồm cả con người.

Glyptodon

Sự tuyệt chủng của loài glyptodon trùng với thời điểm con người bắt đầu xuất hiện ở châu Mỹ, dẫn đến giả thuyết loài thú có mai này đã biến mất do hoạt động săn bắt của con người.

Gigantopithecus

Gigantopithecus blacki (viết tắt: G. blacki) là tên của một giống vượn cổ đại và chúng từng được xem là tổ tiên rất xa của loài người. Dựa trên răng và xương hàm hóa thạch, Gigantopithecus blacki có kích thước đáng kinh ngạc. Các chuyên gia ước tính chúng có thể cao tới 3 mét, nặng 300kg. Loài linh trưởng này chủ yếu xuất hiện ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á từ khoảng 2 triệu đến 330.000 năm trước.

Theo nghiên cứu, loài này từng phát triển mạnh trong các khu rừng rậm rạp với độ che phủ dày đặc, có khả năng tiếp cận nguồn nước quanh năm và hạn chế thay đổi chế độ ăn theo mùa. Thế nhưng từ khoảng 700.000 đến 600.000 năm trước, các khu rừng rậm rạp dần biến mất do thay đổi khí hậu, dẫn tới sự đa dạng về nguồn thực phẩm cũng không còn. 

Gigantopithecus

Nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của loài vượn này là do chúng không thể chuyển đổi thói quen và hành vi ăn uống so với những loài thích nghi nhanh như đười ươi. Chính sự phụ thuộc vào nguồn trái cây giàu dinh dưỡng đã khan hiếm khi môi trường thay đổi mới là nguyên nhân chính dẫn đến tuyệt chủng.

Rùa Archelon

Khi nói về rùa cổ đại, chúng ta cũng nên đề cập đến loài rùa lớn nhất từng tồn tại. Archelon khổng lồ là một loài rùa biển, có họ hàng thân thiết nhất ngày nay là rùa da. Chúng dài hơn 4 mét và rộng 5 mét. Với các hóa thạch được tìm thấy chó biết nơi chúng sống chủ yếu là ở phía Bắc của Hoa Kỳ, trọng lượng của con rùa được ước tính là hơn 2200 kg

rua-archelon

Dimetrodon

Dimetrodon là một loài bò sát thời tiền sử sống ở thời kỳ Permian. Đặc điểm nổi bật nhất của Dimetrodon là một “cánh buồm” lớn trên lưng được các gai xương sống kéo dài tạo ra. Nó đi bốn chân và có hộp sọ dài, cong với răng có nhiều kích cỡ trên cùng một hàm.

Dimetrodon là động vật ăn thịt, sống cách đây 238 triệu năm. Nó có kích thước cơ thể dài khoảng 1,7 – 4,6 mét và đã bị tuyệt chủng 40 triệu năm trước khi loài khủng long đầu tiên xuất hiện trên Trái Đất.

Dimetrodon

Hầu hết hóa thạch của nó được tìm thấy ở miền tây nam Hoa Kỳ, và hầu hết số hóa thạch đó ở Texas và Oklahoma. Gần đây hơn, đã tìm ra hóa thạch của loài này ở Đức.

Scutosaurus

Scutosaurus là một chi động vật bò sát thuộc họ Pareiasaur, sinh sống trong thời kỳ Permi muộn. Sinh vật này có chiều dài khoảng 2,5-3 mét, nặng 1 tấn. Ở dọc và hai bên lưng của chúng có mọc một số mai để bảo vệ cơ thể khỏi những kẻ săn mồi.

Scutosaurus

Hóa thạch đã được tìm thấy trong Khu tập hợp Sokolki của hệ tầng Malokinelskaya ở Nga châu Âu, gần dãy núi Ural.

Thế giới thời tiền sử là một nơi đầy những bí ẩn và kỳ thú. Những loài động vật khổng lồ là một phần quan trọng của thời đại này, và chúng là một minh chứng cho sự đa dạng và khả năng thích nghi của cuộc sống trên Trái đất.

Tác giả:

Nguyễn Thúy là một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bà Nguyễn Thúy sớm thể hiện niềm đam mê đặc biệt với các câu chuyện lịch sử và di sản văn hóa dân tộc. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu và khám phá các tài liệu lịch sử quý giá, từ đó đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cho cộng đồng học thuật và xã hội.Nguyễn Thúy tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử. Bà tiếp tục học cao học và nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi bà đã có những nghiên cứu sâu rộng về các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là các giai đoạn Lý, Trần và Lê sơ. Bà cũng tham gia nhiều dự án nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Đông Nam Á, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực này.