Cần Thơ, thành phố miền Tây nổi tiếng với cảnh đẹp và văn hóa phong phú, còn được biết đến với nhiều khu di tích lịch sử đặc sắc. Những khu di tích ở Cần Thơ không chỉ phản ánh bề dày văn hóa mà còn là điểm đến thú vị cho những ai muốn tìm hiểu về quá khứ. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những khu di tích nổi bật, nơi lưu giữ giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Giới thiệu chung về Cần Thơ
Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, được biết đến như là “Tây Đô,” nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long. Với vị trí địa lý thuận lợi, Cần Thơ không chỉ là trung tâm kinh tế mà còn là điểm nhấn văn hóa, giáo dục của miền Tây Nam Bộ. Thành phố có diện tích khoảng 1.400 km² và dân số gần 1,5 triệu người, trong đó người Kinh chiếm đa số, bên cạnh các cộng đồng dân tộc khác như Khmer, Hoa.
Cần Thơ nổi bật với hệ thống kênh rạch chằng chịt, tạo nên những cảnh quan tuyệt đẹp và đặc trưng của miền Tây. Các chợ nổi như chợ nổi Cái Răng, chợ nổi Phong Điền không chỉ là nơi buôn bán mà còn là điểm giao lưu văn hóa độc đáo. Du khách có thể trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây qua những chuyến thuyền trên sông, thưởng thức các món ăn đặc sản như bún riêu, lẩu mắm, cá lóc nướng trui và các loại trái cây nhiệt đới tươi ngon.
Người dân Cần Thơ nổi tiếng với lòng hiếu khách, sự thân thiện và chất phác. Văn hóa ẩm thực phong phú, những lễ hội truyền thống diễn ra suốt cả năm như lễ hội trái cây, lễ hội bánh tét, lễ hội đua ghe ngo đều thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của người dân nơi đây. Ngoài ra, Cần Thơ còn là trung tâm giáo dục với nhiều trường đại học và cơ sở nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực.
Danh sách các khu di tích ở Cần Thơ
Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Bình Thủy
Địa chỉ: 46/11A Lê Hồng Phong, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ
Giờ mở cửa tham khảo: 7:30 – 10:30 | 13:30 – 17:30, mở cửa tất cả các ngày trong tuần.
Di tích lịch sử nổi tiếng này được xây dựng vào năm 1844 tại làng Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên (hiện nay thuộc phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ).
Vào năm 1852, trong một lần đi tuần trên sông, quan khâm sai Huỳnh Mẫn Đạt đã gặp phải một cơn bão lớn nhưng may mắn ẩn náu tại Bình Hưng và thoát nạn. Để ăn mừng, ông đã tổ chức tiệc và đổi tên khu vực này thành “Bình Thủy”, mang ý nghĩa “dòng nước yên ả”. Kể từ đó, ngôi đình được người dân gọi là đình Bình Thủy.
Năm 1853, người dân trong làng đã quyên góp để nâng cấp ngôi đình trở nên khang trang hơn với tường gạch, mái ngói đỏ và kết cấu gỗ vững chắc. Họ cũng xây dựng thêm nhà võ ca để phục vụ các lễ hội lớn.
Đến đầu năm 1904, nhận thấy ngôi đình đang xuống cấp, quan tri phủ Nguyễn Đức Nhuận đã quyết định xây dựng lại. Tuy nhiên, do ông qua đời trước khi hoàn tất công trình, việc sửa chữa đã phải tạm dừng. Đến năm 1909, công việc xây dựng lại đình mới tiếp tục và chính thức hoàn thành vào năm 1910.
Trong giai đoạn này, làng Bình Thủy được đổi tên thành “Long Tuyền”, mang ý nghĩa “con rồng nằm”, nên ngôi đình còn được biết đến với tên gọi Long Tuyền Cổ Miếu hay đình Long Tuyền.
Di tích lịch sử Cơ Quan Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang (1929-1930)
Khi đến phường Long Hòa, Long Tuyền (quận Bình Thủy), bên tay phải có căn nhà số 34/7 trên đường Bùi Hữu Nghĩa. Đây từng là nơi được thuê làm văn phòng của Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang.
Vào tháng 9 năm 1929, tại căn nhà này đã diễn ra một sự kiện quan trọng đối với Đảng bộ miền Hậu Giang: Hội nghị thành lập tổ chức “Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang”, do đồng chí Châu Văn Liêm chủ trì. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Đặc ủy, với các đồng chí Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Trí… trong đó đồng chí Ung Văn Khiêm giữ chức Bí thư.
Chỉ sau 5 tháng hoạt động, Đặc ủy đã xây dựng nhiều cơ sở Đảng trên khắp miền Hậu Giang, góp phần quan trọng vào việc thống nhất Đảng thành một tổ chức duy nhất, lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Sau ngày 3 tháng 2 năm 1930, ba tổ chức Đảng đã được hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, với Đặc ủy trực thuộc Xứ ủy Nam Kỳ. Đồng chí Ung Văn Khiêm được bổ nhiệm làm Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ, trong khi đồng chí Hà Huy Giáp giữ chức Bí thư Đặc ủy Hậu Giang.
Vào tháng 4 năm 1930, để bảo đảm an toàn cho Đặc ủy, cơ quan này đã chuyển về tỉnh Sa Đéc.
Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là nền tảng ban đầu cho việc xây dựng và phát triển Đảng bộ cũng như phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Hậu Giang. Vì vậy, Bộ Văn hóa Thông tin đã ra Quyết định số 154.VH/QĐ vào ngày 25 tháng 1 năm 1991, công nhận cơ quan Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Năm 1995, Ủy ban Nhân dân TP Cần Thơ cùng với nhân dân phường Bình Thủy đã khởi công xây dựng công trình bia tưởng niệm Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang tại phường Bình Thủy.
Di tích lịch sử Chùa Nam Nhã
Chùa Nam Nhã Cần Thơ được xây dựng bởi Nguyễn Giác Nguyên vào năm 1895. Trước đây, khu vực này là một tiệm thuốc bắc mang tên Nam Nhã Đường, sau đó được cải tạo và đổi tên thành chùa Nam Nhã. Ngoài việc thờ cúng, chùa còn là trụ sở chính của phong trào Đông Du, do cụ Phan Bội Châu khởi xướng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa Nam Nhã trở thành địa điểm tập hợp và nuôi dưỡng các phong trào yêu nước, đồng thời là nơi sản sinh ra nhiều sĩ phu văn thân với tinh thần kiên cường chống lại giặc ngoại xâm. Trong những năm tháng khó khăn của cách mạng, Đặc ủy Hậu Giang và Xứ ủy Nam Kỳ đã chọn chùa làm nơi liên lạc với các tổ chức cách mạng trên toàn miền.
Khi đến thăm chùa Nam Nhã, du khách như được trở về những năm tháng hào hùng của dân tộc, cảm nhận sâu sắc nỗi đau của các sĩ phu yêu nước cách đây một thế kỷ. Chùa có không gian rộng rãi, bao quanh là một khu vườn lớn. Cổng chùa được lợp bằng gạch ngói, với những câu đối trang trí trên các cột chào đón người hành hương. Giữa sân chùa có một hòn non bộ và nhiều cây cảnh được cắt tỉa rất công phu.
Chánh điện, còn gọi là Diêu Trì Bửu Điện, gồm năm gian, mang sự hòa quyện giữa phong cách Hoa – Pháp – Việt. Các họa tiết trang trí trong chùa được điêu khắc tinh xảo, màu sắc chủ đạo là vàng, biểu trưng cho sự may mắn. Mái chùa lợp ngói âm dương màu đỏ, trên đỉnh có tượng lưỡng long tranh châu. Phía sau chánh điện là một dãy hành lang dài, có hai gian dành cho tiếp khách, bên cạnh là dãy nhà Càn Đạo Đường cho nam và Khôn Đạo Đường cho nữ.
Di tích lịch sử Mộ nhà thơ Phan Văn Trị
Từ Bến Tre, du khách phải vượt qua hơn 90 km để đến Di tích lịch sử cấp Quốc gia Mộ nhà thơ Phan Văn Trị, nằm tại ấp Nhơn Lộc 1, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, TP. Cần Thơ. Đường vào khu di tích từ quốc lộ rất rộng rãi và thông thoáng. Di tích tọa lạc bên bờ sông, không gian thoáng đãng, được bao quanh bởi nhiều cây xanh phát triển tốt.
Chị Lại Bích Trâm, thuyết minh viên tại di tích, đã giới thiệu nhiều thông tin thú vị về di tích và các hoạt động từng diễn ra tại đây. Nhà thơ Phan Văn Trị sinh năm 1830 ở làng Hưng Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Sau nhiều biến động trong cuộc đời, ông đã chọn Phong Điền làm nơi an cư và yên nghỉ. Ông qua đời vào ngày 22-6-1910 tại làng Nhơn Ái, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang cũ (nay là ấp Nhơn Lộc 1, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, TP. Cần Thơ).
Ban đầu, khu mộ của nhà thơ chỉ được xây dựng đơn giản bằng xi măng. Đến năm 1990, huyện Phong Điền đã tiến hành trùng tu mộ bằng đá mài, xây hàng rào, trồng cây xanh và mở rộng đường vào khu mộ. Năm 1991, mộ nhà thơ Phan Văn Trị được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đến năm 2005, UBND huyện Phong Điền tiếp tục cải tạo di tích với quy mô trên 3.000 mét vuông, bao gồm phần mộ (có cả phần của ông và bà Đinh Thị Thanh, vợ ông), nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, cùng nhiều hạng mục khác như tượng sách với các bài thơ của ông, bia đá khắc bài thơ, ao sen, sân lễ và cây xanh.
Lâu nay, chính quyền và người dân nơi đây đã tổ chức lễ giỗ của ông vào ngày dương lịch 22-6 hàng năm. Chị Lại Bích Trâm chia sẻ rằng không chỉ trong ngày giỗ, mà vào nhiều dịp lễ, Tết khác, chính quyền và người dân địa phương cũng tổ chức lễ dâng hương để tưởng niệm. Vào những ngày thường, có rất nhiều đoàn khách, học sinh, sinh viên và các bạn trẻ đến tham quan, viếng thăm và tìm hiểu về lịch sử của ông. Khu đền thờ luôn có người bảo vệ và sẵn sàng thuyết minh cho các đoàn khách khi cần.
“Đặc biệt trong ngày giỗ, có nhiều hoạt động diễn ra như: Ngày 21-6, bà con địa phương cùng nhau gói bánh để dâng cúng ông. Huyện tổ chức một số trò chơi dân gian, và vào tối hôm đó sẽ có chương trình văn nghệ giao lưu giữa Giồng Trôm và Phong Điền. Sáng hôm sau (22-6), địa phương tổ chức lễ dâng hương.”, chị Trâm cho biết thêm.
Di tích nghệ thuật Chùa Long Quang
Chùa Long Quang, hay còn gọi là Long Quang cổ tự, tọa lạc tại số 155/6 khu vực Bình Chánh, phường Long Hòa, Quận Bình Thủy, TP Cần Thơ. Để đến chùa, du khách có thể đi từ Sân bay Trà Nóc theo đường Cách Mạng Tháng Tám, rẽ vào tỉnh lộ và di chuyển khoảng gần 10 km qua nhiều cây cầu nhỏ bắc qua kênh rạch. Chùa được Thiền sư Thiện Quyền thành lập vào năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824) và đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi cũng như đơn vị quản lý, cho đến năm 1966, chùa chính thức mang tên Long Quang cổ tự. Ban đầu, chùa theo phái Thiền Tông Lâm Tế Trung Hoa, nhưng hiện nay đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thuộc hệ phái Bắc Tông.
Chùa có diện tích gần 12.000 mét vuông, nằm bên bờ sông Bình Thủy yên ả. Từ mặt tiền chùa, du khách sẽ thấy hàng rào bằng sắt kéo dài khoảng 50 mét, bên trái là cổng tam quan đồ sộ với hai tầng mái ngói uốn cong, trang trí hoa văn và bánh xe pháp luân trên đầu mái.
Hai cột cổng chính được trang trí bằng câu đối chữ Hán với ý nghĩa:
“Long đức phổ thập phương, Phật đạo hoằng thâm chánh giáo
Quang minh chiếu tam giới, thiền lâm quãng nhuận chân truyền”
Trong sân chùa có một hồ sen nhỏ và nhà thủy tạ với tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đứng trên đài sen. Xung quanh hồ được trang trí bằng những bức hoa sen cách điệu. Trước cửa chùa có một bia lưu niệm ghi tóm tắt thông tin về việc công nhận chùa là di tích lịch sử-văn hóa và ngày trùng tu ngôi chánh điện. Bên phải sân chùa có tượng đài Quan Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao hơn 2 mét.
Di tích lịch sử Chùa Hội Linh
Chùa Hội Linh, còn được biết đến với tên gọi Hội Linh Cổ Tự, nằm tại số 314/36 đường Cách Mạng Tháng Tám, cách đường khoảng 200 mét, thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, cách trung tâm TP Cần Thơ khoảng 2,5 km.
Chùa được xây dựng vào năm 1904 (Giáp Thìn) bằng tre lá, do Hòa Thượng Thích Thanh Hương, hiệu Khánh Hưng, khai sơn với tên gọi Hội Long Tự, thuộc dòng Thiền Tông Lâm Tế. Đến năm 1914 (tháng 4 năm Giáp Dần), chùa đã được trùng tu lần đầu và đổi tên thành Hội Linh Cổ Tự, dưới thời cố Hòa thượng Thích Hoằng Đạo. Đến nay, tên chùa vẫn được giữ nguyên, nhưng người dân địa phương thường gọi là chùa Xẻo Cạn do trước đây có một con rạch cạn bên cạnh, giờ đã bị lấp.
Về kiến trúc, chùa bao gồm đầy đủ cổng tam quan, chánh điện, hậu đường và giảng đường. Khi tiến vào chùa, du khách sẽ đi qua cổng tam quan, nằm dưới bóng cây bồ đề, một loại cây thường thấy ở các chùa. Xung quanh là dãy tường rào hình cánh cung với một cổng chính và hai cổng phụ. Cổng chính được thiết kế với hai lớp mái, mái cong được lợp ngói âm dương màu xanh rất đẹp. Trên mái ngói cổng chính có hình lưỡng long tranh châu, một biểu tượng trang trí phổ biến ở các chùa và đình Nam Bộ. Hai bên cổng chính có đôi câu đối bằng chữ Hán với nội dung:
“Hội thượng diên chân chùa tiếp dân thập phương quy giác lộ
Linh sơn khai nhãn tạng đề huế tứ chúng xuất mê tân”
Hai câu đối này mang ý nghĩa rằng chùa là nơi chào đón mọi người, không phân biệt đẳng cấp, để họ đến nghe giảng pháp, được hướng dẫn theo lời Phật dạy, dẫn dắt con người vào con đường thiện lành và hạnh phúc.
Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Ông (Quảng Triệu Hội Quán)
Chùa Ông ở Cần Thơ được khởi công xây dựng vào năm 1894 trên diện tích 532m² và hoàn thành vào năm 1896, mang tên Quảng Triệu Hội Quán. Nằm giữa khu dân cư đông đúc, chùa trở thành nơi thờ cúng và giao lưu của cộng đồng người Hoa tại địa phương. Đến năm 1993, chùa đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Theo tư liệu từ các bản khắc gỗ, công trình được xây dựng bởi những người Hoa đến từ Quảng Châu và Triệu Khánh, nhằm tạo dựng một không gian thờ phụng và hỗ trợ nhau trong làm ăn tại vùng đất mới. Theo lời kể của các bậc cao niên, đa phần vật liệu và những chi tiết trang trí đều được nhập khẩu từ Quảng Đông, nhiều trong số đó là những sản phẩm nghệ thuật gốm sứ thủ công từ thời nhà Thanh.
Chùa Ông là một trong những ngôi chùa hiếm hoi ở Cần Thơ cũng như trên toàn quốc còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc cổ và ý nghĩa tín ngưỡng đặc trưng, dù đã trải qua nhiều năm chiến tranh, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Vào ngày 21/6/1993, chùa Ông đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia.
Di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà Thờ Họ Dương
Nhà cổ Bình Thủy, còn được gọi là Nhà thờ họ Dương, tọa lạc trên đường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ. Ngôi nhà cổ này được gia đình họ Dương khởi công xây dựng lần đầu vào cuối thế kỷ XIX và sau đó được trùng tu vào những năm đầu thế kỷ XX.
Chủ nhân của ngôi nhà là ông Dương Chấn Kỷ, một thương gia giàu có và trí thức, có niềm đam mê với nghệ thuật. Ông thường xuyên khám phá những yếu tố mới lạ của phương Tây đang nổi bật và áp dụng vào nhiều lĩnh vực, trong đó có kiến trúc. Do đó, Nhà cổ Bình Thủy nổi bật với sự hòa quyện giữa hai nền văn hóa Đông – Tây, thể hiện rõ qua lối kiến trúc “nội ứng ngoại hợp” – nội thất phản ánh nghệ thuật truyền thống và văn hóa phương Đông, trong khi mặt tiền lại mang hơi thở của kiến trúc phương Tây và cảnh quan thiên nhiên xung quanh.
Nhà thờ họ Dương được xây dựng trên khu đất rộng 6.000m², theo hướng Đông – Tây. Bước qua cổng rào kiên cố bằng bê tông và sắt, mang phong cách dinh thự Pháp, du khách sẽ thấy một cổng phụ chếch bên trái, được thiết kế theo kiến trúc Á Đông với bốn cột tròn, cùng hệ thống rui, mè, xà ngang làm bằng gỗ và mái ngói ống truyền thống.
Khu di tích ở Cần Thơ không chỉ là điểm tham quan mà còn là những di sản văn hóa quan trọng. Tham quan các khu di tích này, bạn sẽ cảm nhận được sự phong phú về lịch sử và văn hóa của miền Tây. Hãy lên kế hoạch khám phá Cần Thơ để trải nghiệm những điều tuyệt vời mà nơi đây mang lại, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.