Sự kiện tuyệt chủng Permi là vụ tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử Trái Đất, đã xóa sổ 95% số loài sinh vật biển và 70% số loài sinh vật trên cạn.
Kỷ Permi là gì?
Kỷ Permi hay còn gọi là kỷ Tam Điệp là một kỷ địa chất kéo dài 47 triệu năm, từ khoảng 298,9 triệu năm trước đến khoảng 252,17 triệu năm trước. Đây là kỷ cuối cùng của đại Cổ Sinh và được đặt tên theo thành phố Perm ở Nga, nơi các hóa thạch kỷ Permi lần đầu tiên được phát hiện.
Sự kết thúc của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn, gọi là sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, đã được xác định niên đại chính xác hơn.
Sự kiện tuyệt chủng Permi gắn với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh vật học. Ước tính có đến 90% đến 95% các loài sinh vật biển đã tuyệt chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ tới 99,5% số lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện này.
Khí hậu
Cũng như trong thời kỳ Cacbon trước đó, khí hậu của kỷ Permi có mối liên hệ mật thiết với địa lý của nó. Phần lớn đất đai của trái đất vẫn bị nhốt trong siêu lục địa Pangea, với các nhánh xa bao gồm Siberia, Australia và Trung Quốc ngày nay. Trong thời kỳ đầu của kỷ Permi, phần lớn phía nam Pangea được bao phủ bởi các sông băng, nhưng điều kiện ấm lên đáng kể vào đầu kỷ Trias, với sự xuất hiện trở lại của
Địa chất kỷ Permi
Kỷ Permi có những khu rừng mưa rộng lớn tại hoặc gần đường xích đạo. Các hệ sinh thái trên toàn cầu cũng trở nên khô cằn hơn đáng kể, điều này đã thúc đẩy sự phát triển của các loại bò sát mới thích nghi tốt hơn để đối phó với khí hậu khô cằn.
Các sông băng đã có trong thời kỳ Carboniferous đã tồn tại ở vùng cực nam Gondwana. Do sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu, các sông băng này rút đi dọc theo kỷ Permi. Trong thời kỳ này, Hercynian orogeny đã có thể phát triển nhờ mức độ hoạt động địa chấn cao. Khi các mảng kiến tạo di chuyển ngày càng mạnh, hiện tượng orogen này có thể được hình thành, dẫn đến sự hình thành lục địa lớn gọi là Pangea.
Khi thời kỳ này bắt đầu, hành tinh của chúng ta vẫn đang chịu những tác động cuối cùng của quá trình băng hà. Điều này có nghĩa là tất cả các vùng Cực đều bị bao phủ bởi những lớp băng rộng lớn. Mực nước biển trong kỷ Permi nói chung là thấp.
Hệ động – thực vật trong kỷ Permi
Động vật biển
Trong các môi trường đại dương thì các kiểu san hô mới và hiện đại đã xuất hiện vào thời kỳ Trias sớm, tạo thành các mảng đá ngầm có kích thước khiêm tốn hơn so với các hệ thống san hô lớn của kỷ Devon hay của đá ngầm ngày nay. Sinh vật dưới đáy biển nhiệt đới phong phú, bao gồm các nhóm tay cuộn, da gai, hình rêu, san hô, ít hơn là thân mềm và bọ ba thùy.
Động vật trên cạn
Trong Permi Sớm, loại động vật đa dạng và phong phú là lưỡng cư và synapsid nhánh-pelycosaur. Tuy nhiên hệ động vật bốn chân trên cạn ở giai đoạn sau có sự khác biệt đáng kể khi mà therapsid thống trị với những đại diện to lớn phổ biến như dinocephalia, therocephalia, gorgonopsia, và dicynodont.
Thực vật
Trên đất liền, những loại thực vật còn sống sót là ngành Lycopodiophyta (thạch tùng, thông đất), thống lĩnh là tuế (ngành Cycadophyta), ngành Ginkgophyta (đại diện ngày nay là bạch quả (Ginkgo biloba)) và dương xỉ có hạt. Thực vật có hạt thống lĩnh mặt đất. Ở bán cầu bắc, các loài thông là chủ yếu. Glossopteris (dương xỉ có hạt) đã thống trị bán cầu nam vào đầu kỷ Trias.
Nguyên nhân tuyệt chủng kỷ Permi
Theo các nghiên cứu được thực hiện và dữ liệu được thu thập bởi các chuyên gia trong khu vực, sự tuyệt chủng hàng loạt lớn nhất là sự kết thúc của Permi và sự khởi đầu của Trias. Lý do cho điều này là trong quá trình này, xảy ra khoảng 250 triệu năm trước, gần như tất cả các dạng sống trên hành tinh đều biến mất.
Các bằng chứng khảo cổ cho thấy, nguyên nhân chính của hiện tượng trên là do sự vận động kiến tạo mạnh mẽ của lớp vỏ Trái đất, gây nứt gãy, dồn nén các mảng lục địa.
Sự phun trào magma lên bề mặt Trái đất đã nhấn chìm tất cả trong biển lửa. Bên cạnh đó, bụi và khí carbonic tràn ngập không khí, gây hiệu ứng nhà kính khiến Trái đất càng trở nên nóng hơn bao giờ hết. Dưới đại dương, các dòng hải lưu thay đổi đã làm biến mất nhiều hệ sinh thái, sự sống trở nên vô cùng mong manh.
Một nguyên nhân nữa được cho là góp phần gây ra vụ đại tuyệt chủng đẫm máu này là sự va chạm của thiên thạch có bán kính 500km với Trái đất. Vết tích của vụ va chạm này được tìm thấy ở Nam Cực năm 2006 bởi các nhà khoa học thuộc trường Đại học Tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Phải mất một thời gian rất lâu sau đó, sự sống mới được khôi phục lại dần dần từ những sinh vật nhỏ may mắn sống sót trong đó có một số nhóm bò sát.