Thời trung đại

Tìm hiểu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản phương Tây

Trong bài viết này sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản phương Tây là gì. Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, chế độ bóc lột lao động làm thuê và phân phối sản phẩm theo lao động. Chủ nghĩa tư bản ra đời ở châu Âu vào thế kỷ XVI – XVII và trở thành hình thái kinh tế – xã hội chiếm ưu thế trên thế giới hiện nay.

Chủ nghĩa tư bản là gì? 

Chế độ phong kiến ​​thế giới suy tàn vào thế kỷ XV – XVI. Năm 1506-1609, cách mạng tư sản Hà Lan đã lật đổ thành công ách thống trị của Tây Ban Nha. Sau đó thành lập nhà nước tư sản đầu tiên trên thế giới.

Cách mạng Hà Lan báo trước một thời đại mới, thời đại của các cuộc cách mạng tư sản. Năm 1640, cách mạng tư sản Anh thắng lợi đã mở ra thời kỳ lịch sử cận đại thế giới. Tức là mở đầu một kỷ nguyên mới mà nội dung của nó là sự chuyển đổi từ chế độ phong kiến ​​sang chế độ tư bản.

tim-hieu-su-ra-doi-cua-chu-nghia-tu-ban-phuong-tay

Chủ nghĩa tư bản ra đời khi nào?

Lịch sử của chủ nghĩa tư bản có nhiều nguồn gốc khác nhau và gây tranh cãi, nhưng người ta thường chấp nhận rằng chủ nghĩa tư bản chính thức đã phát sinh ở tây bắc châu Âu, đặc biệt là ở các Nước vùng thấp (chủ yếu là người Hà Lan hiện đại).

Hà Lan hiện nay) và Anh, vào thế kỷ 16-17. Được tích lũy theo nhiều cách khác nhau và trên nhiều quy mô trong nhiều thế kỷ tiếp theo, cùng với những thay đổi mạnh mẽ về mức độ tập trung quyền lực và của cải kinh tế, chủ nghĩa tư bản dần trở thành hệ thống kinh tế thống trị trên toàn thế giới. Do đó, phần lớn lịch sử của năm trăm năm qua liên quan đến sự phát triển của nhiều hình thức chủ nghĩa tư bản.

Các giai cấp của xã hội tư bản

Xã hội tư bản chủ nghĩa được chia làm hai giai cấp chính là tư sản và công nhân (vô sản). Tư sản là giai cấp thống trị áp bức, bóc lột. Tư sản bao gồm nhiều tầng lớp: tư sản công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng. Giai cấp này có được địa vị áp bức, bóc lột thống trị nhờ nắm giữ được các tư liệu sản xuất như ruộng đất, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng và các ngành kinh tế quan trọng khác của đất nước. 

cac-giai-cap-cua-xa-hoi-tu-ban

Công nhân là giai cấp bị áp bức, bóc lột. Nguồn gốc của giai cấp công nhân từ thợ thủ công trong các công xưởng thủ công, thị dân, nông dân phá sản, có sức lao động nhưng không có tư liệu sản xuất đành phải vào xí nghiệp hầm mỏ, nhà máy bán sức lao động cho nhà tư bản để nhận lương nuôi sống gia đình.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bên cạnh hai giai cấp chính là giai cấp công nhân và tư sản còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp khác như nông dân thị dân, quý tộc phong kiến (nếu như cách mạng tư sản ở nước đó không triệt để), trí thức tư sản. 

Bộ máy nhà nước tư bản

Sau khi làm cách mạng lật đổ phong kiến lên nắm chính quyền, giai cấp tư sản thiết lập nhà nước tư sản để xây dựng một xã hội khác xã hội phong kiến. Cách mạng tư bản Anh (1640-1687) đã thành lập thiết chế quân chủ nghị viện. Trong thời kỳ cận đại, đây là mô hình của phần lớn nhà nước tư sản châu Âu.

Tư sản còn thiết lập thiết chế cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị, cộng hòa lưỡng thể (vừa mang tính chất cộng hòa đại nghị vừa mang tính chất cộng hòa tổng thống, thậm chí có cả thiết chế quân chủ (nền quân chủ tư sản). Chọ đến nay, thiết chế cộng hòa chiếm đa số các nước so với quân chủ và quân chủ nghị viện. Giai cấp tư sản đã xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn nhiều so với nhà nước nô lệ và phong kiến.

bo-may-nha-nuoc-tu-ban

Hình thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản là gì?

Không có tư liệu sản xuất thì giai cấp công nhân còn được gọi là giai cấp vô sản. Họ bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư, tức là khi người công nhân làm việc 10 giờ một ngày thì tư bản chỉ trả cho họ 3 giờ tiền công, nhà tư bản chiếm đoạt 7 giờ lao động, trừ đi chi phí. Máy móc và nguyên vật liệu mất 3 giờ thì nhà tư bản thu được 4 giờ bằng tiền, 4 giờ lãi là giá trị thặng dư mà tư bản trích ra từ sức lao động của công nhân.

chu-nghia-tu-ban

Trên thực tế, công nhân châu Âu trong thời kỳ đầu hiện đại phải làm việc từ 16 đến 18 giờ một ngày với mức lương rẻ mạt. Ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, chủ nghĩa tư bản kết hợp giữa bóc lột tư bản chủ nghĩa với bóc lột phong kiến ​​và bóc lột nô lệ công nhân nhằm thu nhiều lợi nhuận.

Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu chi phối mọi hoạt động kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Như vậy bạn đã hiểu chủ nghĩa tư bản là gì rồi đúng không nào. Mong rằng bài viết đã mang đến những thông tin hấp dẫn nhất cho mọi người. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đã giúp bạn có cái nhìn tổng quan hơn về thời kỳ này. Hãy chia sẻ bài viết để mọi người cùng biết đến chế độ này. 

Chủ nghĩa tư bản có vai trò gì?

Nền kinh tế chủ nghĩa tư bản tạo động lực cho các nhà kinh doanh phân bổ lại nguồn nguyên liệu. Đây là phương tiện hiệu quả cao góp phần tăng trưởng kinh tế. 

Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản còn có vai trò nâng cao năng lực sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng. Những sản phẩm này có chất lượng cao hơn, dễ tiếp cận với người tiêu dùng. 

Chủ nghĩa tư bản là hệ thống trao đổi hiệu quả nhất đem lại nguồn lợi to lớn cho các chủ tư bản.

Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế và xã hội quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Nó thúc đẩy sự tự do kinh tế, sáng tạo, và phát triển. Tuy nhiên, nó cũng đối mặt với các thách thức như chênh lệch giàu nghèo và áp lực cạnh tranh quá mức.

Tác giả:

Nguyễn Thúy là một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bà Nguyễn Thúy sớm thể hiện niềm đam mê đặc biệt với các câu chuyện lịch sử và di sản văn hóa dân tộc. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu và khám phá các tài liệu lịch sử quý giá, từ đó đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cho cộng đồng học thuật và xã hội.Nguyễn Thúy tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử. Bà tiếp tục học cao học và nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi bà đã có những nghiên cứu sâu rộng về các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là các giai đoạn Lý, Trần và Lê sơ. Bà cũng tham gia nhiều dự án nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Đông Nam Á, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực này.