Thời tiền sử

Thời kỳ đồ đá là gì? Bắt nguồn từ khi nào?

Thời kỳ đồ đá, còn được biết đến với tên gọi Thời kỳ Tiền sử là giai đoạn quan trọng của lịch sử loài người, bắt đầu khoảng 2,5 triệu TCN và kéo dài đến 3000 TCN. Trong giai đoạn này, loài người tiền sử đã xuất hiện và phát triển, chủ yếu dựa vào việc săn bắt và thu thập thực phẩm.

Đây là giai đoạn đầu tiên của cuộc phiêu lưu lịch sử của chúng ta, nơi mà sự sáng tạo và thích nghi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đối mặt với thách thức của môi trường tự nhiên.

Thời kỳ đồ đá là gì? Bắt nguồn từ khi nào?

Thoi-ky-do-da-la-gi

Thời kỳ đồ đá, còn được gọi là thời đồ đá hay Paleolithic, là một thời kỳ tiền sử kéo dài và là một giai đoạn lịch sử quan trọng của loài người. Đây là giai đoạn mà con người chủ yếu sử dụng đá để chế tạo công cụ có cạnh sắc, đầu nhọn như dao, rìu, đục và mũi tên. Thời kỳ đồ đá được chia thành 3 phần chính: thời kỳ đồ đá cũ, thời kỳ đồ đá giữa và thời kỳ đồ đá mới.

Thời kỳ đồ đá cũ 

Thời kỳ đồ đá cũ bắt đầu từ khoảng 2,5 triệu năm trước và kéo dài đến khoảng 10.000 năm trước. Đây là thời kỳ con người chủ yếu sống bằng săn bắn và hái lượm, không có nghề nghiệp ổn định. 

Công cụ chủ yếu của họ là đá, được chế tạo bằng cách đập hoặc mài. Các sản phẩm nguồn gốc hữu cơ cũng được sử dụng làm công cụ, bao gồm da và các sợi thực vật; tuy nhiên các loại công cụ này đã không được bảo quản ở mức độ đáng kể.

Thoi-ky-do-da-cu 

Các nguồn thức ăn của những người săn bắn hái lượm thời kỳ đồ đá gồm cả động vật và thực vật sống trong môi trường nơi họ sống. Những người dân cư này thích ăn thịt nội tạng thú, gồm cả gan, thận và óc. Họ ăn ít đồ có nguồn gốc từ sữa hay thức ăn thực vật như các loại rau hay ngũ cốc.

Người ta cũng tìm thấy dấu vết của nghệ thuật và tôn giáo trong thời kỳ này, chẳng hạn như các bức vẽ động vật trên tường hang động.

Thời kỳ đồ đá giữa

Thời đại đồ đá giữa (tiếng Anh là Mesolithic có gốc từ tiếng Hy Lạp: mesos “giữa”, lithos “đá”). Giai đoạn này bắt đầu khoảng 200.000 năm trước và nổi tiếng nhất vì nó là giai đoạn sinh sống của người Neanderthal (khoảng 120.000–35.000 năm trước).

Thoi-ky-do-da-giua

Giới nghiên cứu thời tiền sử thường cho rằng, trong Thời đại đồ đá giữa , nhiều nơi trên thế giới (như vùng Nam Âu, Bắc Phi, châu Úc…) đã lưu hành đồ đá nhỏ (microliths). Kỹ thuật chế tác đồ đá nhỏ đòi hỏi một sự tính toán chính xác những chi tiết khi ghè đẽo, tạo ra những loại hình công cụ rất nhỏ, chỉ khoảng 1-2 cm và có dáng hình học như hình tam giác, hình thang, hình chữ nhật…

Sau đó được tháp hoặc khảm vào cán gỗ, sừng hay xương thú tạo thành những mũi tên, mũi lao…rất lợi hại. Các mảnh đá hình học khác có thể dùng làm dao, liềm, mũi giáo, móc… Đây là một bước tiến lớn, một thành tựu kỹ thuật quan trọng trong Thời đại đồ đá giữa.

Với sự xuất hiện của các loại hình công cụ mới như mũi lao, giáo, đặc biệt là cung và tên, con người Thời đại đồ đá giữa đã tổ chức săn bắn hiệu quả hơn. Người ta đã săna bắn được bò rừng, nai, lợn, hoẵng…để lấy thịt và cả gấu, cáo…để lấy lông làm áo khoác.

Việc săn bắn mang lại hiệu quả cao đến mức, trong một số trường hợp cá biệt, con người đã bắt được nhiều thú vượt quá sự tiêu dùng trực tiếp. Người ta chọn những con thú bị thương nhẹ hay thú còn nhỏ, nhốt lại để nuôi, dùng làm thức ăn dự trữ. Những con thú này dần dần trở thành vật nuôi trong nhà. Một hình thái sinh hoạt kinh tế mới đã xuất hiện – đó là thuần dưỡng và chăn nuôi gia súc.

thoi-ki-do-da-moi

Cũng nhờ có những công cụ và vũ khí mới, con người có đủ can đảm để rời bỏ nơi cũ, di cư đi khám phá những vùng đất mới, mở rộng địa bàn cư trú. Điều này đã dẫn tới sự phân tán của các công xã lớn. Những tập đoàn người nhỏ hơn hình thành, sống phân tán trên một phạm vi lãnh thổ rộng. Mặc dù vậy, họ vẫn có quan hệ gần gũi với nhau và liên kết với nhau thành các bộ lạc.

Mỗi bộ lạc chiếm cứ một khu vực nhất định và có những hình thái kỹ thuật, hình thái sinh hoạt khác nhau, tạo nên những đặc trưng văn hóa đa dạng. Vì thế, vào thời đại đồ đá giữa, bên cạnh những khu vực văn hóa lớn, người ta thấy bắt đầu xuất hiện những nền văn hóa địa phương nhỏ.

Mặc dù thường được mọi người coi là nguyên thủy, vẫn có bằng chứng rằng người Neanderthal nuôi dưỡng những người già và tiến hành lễ nghi chôn chất minh chứng cho một xã hội đã được tổ chức. Bằng chứng đầu tiên của sự định cư là ở Australia khoảng 40.000 năm trước khi người hiện đại dường như đã vượt từ châu Á tới bằng cách đi từ đảo này tới đảo khác. 

Những dân cư trung kỳ thời kỳ đồ đá cũng cho thấy những bằng chứng sớm nhất về nghệ thuật và một số khái niệm trừu tượng như vẽ mình bằng đất hoàng thổ. Người ta tiếp tục vẽ tranh trên vách hang đá hay trên những hòn cuội sông, tuy nhiên hình vẽ có vẻ đơn giản hơn so với thời hậu kỳ đá cũ. Tín ngưỡng nguyên thủy thể hiện qua các tập tục mai táng người chết.

Thời kỳ đồ đá mới

Thời đại đồ đá mới là một giai đoạn của thời đại đồ đá trong lịch sử phát triển công nghệ của loài người, bắt đầu từ khoảng năm 10.200 TCN theo bảng niên đại ASPRO ở một vài nơi thuộc Trung Đông, và sau đó ở các nơi khác trên thế giới và kết thúc giữa 4500 và 2000 TCN. Theo cách hiểu thông thường, đây là giai đoạn cuối của thời kỳ đồ đá và con người bắt đầu chế tạo công cụ bằng kim loại. Đây là thời kỳ con người bắt đầu nông nghiệp, chăn nuôi và định cư, tạo ra những ngôi làng và thị trấn đầu tiên. 

Công cụ bằng đá được chế tạo ở thời kỳ này có độ chính xác và tinh xảo hơn so với thời kỳ đồ đá cũ, nhờ vào kỹ thuật mài và đục đá phức tạp hơn. Ngoài ra, người ta cũng phát triển các ngành thủ công, như dệt vải, gốm sứ và chế tác trang sức. 

bo-toc-nguoi-nguyen-thuy

Thời đại đồ đá mới đã giới thiệu cuộc Cách mạng đồ đá mới, bao gồm sự tiến triển của các đặc điểm và thay đổi về hành vi và văn hóa, trên hết là việc đưa vào nuôi trồng và sử dụng các động vật đã được thuần hóa. Việc canh tác thời đại đồ đá mới chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp của các loại thực vật, cả hoang dã và thuần hóa, bao gồm triticum monococcum, kê và triticum spelta, và việc nuôi chó. Vào khoảng 8000 năm trước Công Nguyên, nó bao gồm cừu và dê, bò nhà và lợn được thuần hóa.

Không phải tất cả các yếu tố văn hóa đặc trưng của thời đại đồ đá mới này đều xuất hiện ở mọi nơi theo cùng một trật tự: các xã hội nông nghiệp sớm nhất ở Cận Đông không sử dụng đồ gốm. Ở các khu vực khác trên thế giới, chẳng hạn như Châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á, các sự kiện thuần hóa độc lập đã dẫn đến các nền văn hóa Đồ đá mới đặc biệt theo khu vực của họ, phát sinh hoàn toàn độc lập với các nền văn hóa ở Châu Âu và Tây Nam Á. Các xã hội đầu tiên của Nhật Bản và các nền văn hóa Đông Á khác đã sử dụng đồ gốm trước khi phát triển nông nghiệp.

Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của thời kỳ đồ đá cũ là sự tiến hóa của chính con người. Trong suốt hàng nghìn năm này, ông đã thay đổi về thể chất, học cách chế tạo các công cụ mới, khám phá cách xử lý lửa và bắt đầu thể hiện niềm tin tôn giáo.

Tóm lại thời kỳ đồ đá đánh dấu những bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển của loài người, từ việc chế tạo công cụ đơn giản bằng đá cho đến sự ra đời của nông nghiệp và các ngành thủ công. Thời kỳ đồ đá là nền tảng để con người tiếp tục khám phá, sáng tạo và xây dựng nền văn minh như chúng ta thấy ngày nay. 

Qua sự nghiên cứu về thời kỳ đồ đá, chúng ta không chỉ hiểu rõ hơn về những bước tiến lớn trong quá trình tiến hóa của loài người mà còn nhận thức được sự sáng tạo và sự thích nghi của họ trước những điều kiện khắc nghiệt. Hãy cùng nhìn lại khoảnh khắc đáng kính đó, khi con người bắt đầu xây dựng nền văn minh từ những khởi đầu đáng ngạc nhiên của mình.

Tác giả:

Nguyễn Thúy là một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bà Nguyễn Thúy sớm thể hiện niềm đam mê đặc biệt với các câu chuyện lịch sử và di sản văn hóa dân tộc. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu và khám phá các tài liệu lịch sử quý giá, từ đó đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cho cộng đồng học thuật và xã hội.Nguyễn Thúy tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử. Bà tiếp tục học cao học và nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi bà đã có những nghiên cứu sâu rộng về các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là các giai đoạn Lý, Trần và Lê sơ. Bà cũng tham gia nhiều dự án nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Đông Nam Á, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực này.