Thời tiền sử

Thời kỳ đồ sắt: Sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới

Thời kỳ đồ sắt: Sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới bởi lẽ đây là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử loài người với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, xã hội và văn hóa.

Thời kỳ đồ sắt ra đời năm nào?

Thời đại đồ sắt là thời kỳ chính cuối cùng trong hệ thống ba thời đại để phân loại các cộng đồng xã hội thời tiền sử, nó diễn ra sau thời đại đồ đồng. Niên đại và bối cảnh diễn ra là không đồng nhất theo từng quốc gia hay khu vực địa lý.

Theo các tài liệu kinh điển, thời đại đồ sắt bắt đầu vào thế kỷ 12 TCN tại Trung Đông cổ đại Thời Đại Đồ Sắt, Ấn Độ cổ đại (với nền văn minh Veda hậu-Rigveda) và Hy Lạp cổ đại (với thời đại hắc ám Hy Lạp). Trong các khu vực khác của châu Âu, thời đại này bắt đầu muộn hơn nhiều. Thời đại đồ sắt bắt đầu vào thế kỷ 8 TCN tại Trung Âu và vào thế kỷ 6 TCN tại Bắc Âu. Việc sử dụng sắt, để nấu chảy và rèn thành các công cụ, đã xuất hiện tại nền văn minh Nok ở Tây Phi vào khoảng năm 1200 TCN.

Thời kỳ đồ sắt diễn ra ở đâu?

Trung Đông cổ đại

Thời đại đồ sắt tại Trung Đông cổ đại được cho là đã bắt đầu với sự phát hiện ra sắt nóng chảy và kỹ thuật rèn tại khu vực Tiểu Á hay Kavkaz vào cuối thiên niên kỷ 2 TCN (khoảng 1300 TCN). Từ đây nó đã lan truyền nhanh chóng trong cả khu vực Trung Đông và vũ khí sắt đã thay thế cho vũ khí đồng vào đầu thiên niên kỷ 1 TCN. 

Thoi-ky-do-sat-dien-ra-o-dau

Trong giai đoạn từ thế kỷ 12 TCN đến thế kỷ 8 TCN, Syria và Palestine trở thành khu vực giàu quặng sắt. Đồng đỏ trở nên phổ biến hơn trước thế kỷ 12 TCN, chủ yếu do sự thiếu hụt thiếc sau thương mại Địa Trung Hải sụp đổ.

Điều này dẫn đến việc tìm kiếm vật liệu thay thế, và đồ sắt trở thành lựa chọn phổ biến trước sự ra đời của nó. Trong giai đoạn này, đồ vật từ đồng đỏ được tái chế thành vũ khí, góp phần vào sự chuyển đổi từ đồng đỏ sang đồ sắt. Giai đoạn đầu của đế quốc Assyria cũng tham gia vào thương mại với các khu vực sử dụng công nghệ sắt.

Tiểu lục địa Ấn Độ

Vào đầu thiên niên kỷ 1 TCN đã có sự phát triển mạnh trong công nghệ luyện sắt tại Ấn Độ. Các tiến bộ công nghệ và sự tinh thông trong công nghệ luyện sắt đã thu được trong thời kỳ này. Trung tâm luyện sắt tại miền đông Ấn Độ có niên đại vào thiên niên kỷ 1 TCN.

Có lẽ sớm nhất từ khoảng năm 300 TCN, miền nam Ấn Độ đã sản xuất thép chất lượng cao bằng phương thức gọi là công nghệ nồi nấu, sử dụng sắt rèn có độ tinh khiết cao. Trong quá trình này, than củi và thủy tinh được trộn lẫn trong nồi và nung nóng cho đến khi sắt nóng chảy và hấp thụ cacbon.

Thoi-ky-do-sat

Đông Á

Đồ cổ bằng gang ở Trung Quốc xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Chu, thế kỷ 6 TCN. Văn hóa đồ sắt ở cao nguyên Tây Tạng liên quan đến văn hóa Dương Đồng, được ghi chép trong thư tịch cổ Tây Tạng. Năm 1972, tại Cảo Thành, Thạch Gia Trang (nay là tỉnh Hà Bắc), một chiếc búa bằng đồng đỏ mũi sắt có niên đại thế kỷ 14 TCN đã được khai quật, chế tạo từ aerosiderit.

Sắt cũng đã nhập khẩu vào bán đảo Triều Tiên thông qua thương mại từ thế kỷ 4 TCN, kết thúc thời Chiến Quốc và trước thời nhà Tây Hán. Sắt được giới thiệu đầu tiên cho các bộ lạc ven sông ở miền bắc Triều Tiên.

Sản xuất sắt phát triển nhanh chóng vào thế kỷ 2 TCN, và công cụ sắt xuất hiện trong nông nghiệp vào thế kỷ 1 TCN ở miền nam Triều Tiên. Rìu bằng gang sớm nhất tại miền nam Triều Tiên được phát hiện tại lưu vực sông Geum. Thời kỷ 2 TCN, sự phức tạp của các bộ lạc Tam Hàn đã đặt nền móng cho các nhà nước như Tân La, Bách Tế, Cao Câu Ly và Gia Da. Thỏi sắt trở thành đồ táng quan trọng chỉ ra địa vị xã hội trong thời kỳ này.

Châu Âu

Công việc luyện sắt đã được giới thiệu vào châu Âu vào khoảng năm 1000 TCN, có lẽ từ Tiểu Á và lan tỏa chậm chạp về phía bắc và phía tây trong vòng khoảng 500 năm.

Đông Âu

Thời đại đồ sắt xuất hiện sớm nhất ở Đông Âu trong thiên niên kỷ 1 TCN, với các nền văn hóa Koban, Chernogorovka, và Novocherkassk từ khoảng 900 TCN. Khoảng 800 TCN, nó lan tỏa tới Hallstatt C thông qua sự di cư “Thrace-Cimmeria”.

Cùng với các nền văn hóa Chernogorovka và Novocherkassk, trên lãnh thổ của các nước Nga và Ucraina cổ thì thời đại đồ sắt liên quan chặt chẽ đến người Scythia. Dấu tích sản xuất đồ sắt và công nghiệp luyện kim của họ từ thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 3 TCN được tìm thấy gần Nikopol ở Kamenskoe Gorodishche, khu vực luyện kim chuyên môn hóa của người Scythia cổ đại.

Thoi-ky-do-sat-o-dong-au

Trung Âu

Tại Trung Âu, thời đại đồ sắt chia thành thời đại đồ sắt sớm của nền văn hóa Hallstatt (HaC và HaD, 800 TCN-450 TCN) và thời đại đồ sắt muộn của nền văn hóa La Tène (bắt đầu khoảng 450 TCN). Thời đại đồ sắt kết thúc với sự xâm lăng của người La Mã.

Ý

Tại Ý, thời đại đồ sắt có thể đã được nền văn hóa Villanova đưa vào, nhưng nền văn hóa này thường được coi là thời đại đồ đồng. Nền văn minh Etrusci sau đó được xem là phần của thời đại đồ sắt thực sự. Thời đại đồ sắt Etrusci kết thúc với sự xâm lăng của Cộng hòa La Mã vào năm 265 TCN, khi họ chiếm thành phố cuối cùng của Etrusci là Velzna.

Quần đảo Anh

Tại quần đảo Anh, thời đại đồ sắt kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN cho đến khi người La Mã xâm chiếm, kéo dài tới thế kỷ 5 ở các khu vực không bị La Mã hóa. Các công trình phòng thủ từ thời kỳ này, như những nhà đá hình tháp tròn ở miền bắc Scotland và các pháo đài trên đồi trải rộng trên quần đảo, thường rất ấn tượng.

Bắc Âu

Thời đại đồ sắt chia thành Thời đại đồ sắt tiền La Mã và Thời đại đồ sắt La Mã, theo sự di cư của con người. Nền văn hóa Jastorf chủ yếu đặc trưng ở miền bắc Đức và Đan Mạch, trong khi nền văn hóa Scandinavia trên bán đảo chủ yếu giống với thời đại đồ sắt Gregan.

Sản xuất sắt ở Scandinavia thời kỳ đầu thường liên quan đến thu lượm sắt từ đầm lầy. Tuy nhiên, niên đại chính xác hơn không thể xác định được, dao động từ khoảng 3000 TCN-1000 TCN, chủ yếu ở phần Phi-Đức của Scandinavia.

Công việc chế biến kim loại và đồ sứ amiăng-gốm đồng thời diễn ra, với sứ amiăng được sử dụng trong việc chống và giữ lại nhiệt. Quặng sắt, được cho là cát sắt, thường đi kèm với rìu sứ amiăng thuộc nền văn hóa Ananjino. Tuy nhiên, sứ amiăng-gốm vẫn còn là một bí ẩn, với nhiều sản phẩm như bình, chậu, chai, lọ đoạn nhiệt vẫn chưa rõ chúng được sử dụng để làm gì.

Châu Phi hạ Sahara

Nền văn minh Nok là khu vực nung chảy sắt đầu tiên tại Tây Phi trước năm 1000 TCN. Luyện sắt và đồng lan tỏa về phía nam qua lục địa, đến khu vực Cape vào khoảng năm 200 TCN. Việc sử dụng rộng rãi sắt đã cách mạng hóa cộng đồng người Bantu trong nông nghiệp, loại bỏ công cụ đá khi mở rộng việc trồng cấy. Ưu thế công nghệ của họ lan tỏa dọc theo miền nam châu Phi, giúp họ trở thành cộng đồng giàu có và mạnh mẽ hơn, sản xuất sắt ở quy mô công nghiệp lớn để làm công cụ và vũ khí.

Thoi-ky-do-sat-o-sahara

Vũ khí thời kỳ đồ sắt

Công cụ bằng sắt, xuất hiện và phát triển tương đối muộn, vào cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Sắt có ưu thế rất lớn so với đồng. Sắt rất sẵn, người ta tìm thấy sắt ở nhiều nơi. Sắt lại rất cứng.

Nếu thời kỳ đồ đồng thau chưa hoàn toàn loại trừ đồ đá, thì thời kỳ đồ sắt đã hoàn toàn loại trừ đồ đá và tiến tới loại trừ đồ đồng trong lĩnh vực công cụ sản xuất.

Sắt dùng để chế vũ khí, cày, cuốc, búa, rìu. Sắt đã đẩy mạnh nền sản xuất thủ công, và chỉ với sự xuất hiện nghề luyện sắt và công cụ sắt, với cái cày bằng sắt do súc vật kéo, thì việc khai hoang và trồng trọt đất đai trên quy mô lớn – nông nghiệp dùng cày – mới có thể thực hiện được.

Bên cạnh đó, sự phát triển của kỹ thuật luyện sắt đã dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong chiến tranh. Các loại vũ khí bằng sắt mạnh mẽ hơn và bền hơn cho phép quân đội có thể chiến đấu hiệu quả hơn và giành chiến thắng trong các cuộc chiến.

Dưới đây là một số loại vũ khí phổ biến trong thời kỳ đồ sắt:

  • Kiếm: Kiếm là một loại vũ khí sắc bén được sử dụng để đâm hoặc chém. Kiếm bằng sắt có độ sắc và độ bền cao hơn kiếm bằng đồng, giúp cho các chiến binh có thể tấn công hiệu quả hơn.

Vu-khi-thoi-ky-do-sat

  • Mũi tên: Mũi tên là một loại vũ khí tầm xa được sử dụng để bắn từ cung hoặc nỏ. Mũi tên bằng sắt có độ cứng cao hơn mũi tên bằng đồng, giúp cho chúng có thể xuyên thủng giáp của đối phương.
  • Gươm: Gươm là một loại vũ khí dài được sử dụng để chém hoặc đâm. Gươm bằng sắt có độ sắc và độ bền cao hơn gươm bằng đồng, giúp cho các chiến binh có thể tấn công hiệu quả hơn.
  • Dao: Dao là một loại vũ khí nhỏ gọn được sử dụng để đâm hoặc chém. Dao bằng sắt có độ sắc và độ bền cao hơn dao bằng đồng, giúp cho các chiến binh có thể tấn công hiệu quả hơn.

Ngoài ra, trong thời kỳ đồ sắt còn có một số loại vũ khí khác như giáo, búa, và rìu. Các loại vũ khí này cũng được làm bằng sắt, giúp cho các chiến binh có thể chiến đấu hiệu quả hơn.

Thời kỳ đồ sắt là một giai đoạn phát triển trong lịch sử nhân loại, bắt đầu từ khoảng 1200 TCN ở Trung Đông và lan rộng ra khắp thế giới. Đây là thời kì đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người, cả về kinh tế, văn hóa, và xã hội.

Tác giả:

Nguyễn Thúy là một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam. Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bà Nguyễn Thúy sớm thể hiện niềm đam mê đặc biệt với các câu chuyện lịch sử và di sản văn hóa dân tộc. Bà đã dành nhiều năm nghiên cứu và khám phá các tài liệu lịch sử quý giá, từ đó đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cho cộng đồng học thuật và xã hội.Nguyễn Thúy tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành Lịch sử. Bà tiếp tục học cao học và nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi bà đã có những nghiên cứu sâu rộng về các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là các giai đoạn Lý, Trần và Lê sơ. Bà cũng tham gia nhiều dự án nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Đông Nam Á, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực này.