Xã hội công xã nguyên thủy: giai đoạn lịch sử đầu tiên của loài người, kéo dài hàng triệu năm, từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất cho đến khi xã hội nguyên thủy chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện chế độ nhà nước.
Xã hội công xã nguyên thủy là gì?
Xã hội công xã nguyên thủy: giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người. Trong xã hội công xã nguyên thủy, tư liệu lao động được sử dụng thô sơ chủ yếu là sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động.
Do đó, cơ sở kinh tế thời kỳ này là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Xã hội nguyên thủy không có chiếm hữu tư nhân, không có người bóc lột và không có bộ máy chính quyền dưới bất cứ hình thức nào.
Đặc điểm của xã hội nguyên thủy?
Thị tộc và bộ lạc
Những người tinh khôn, với một số lượng cố định vẫn duy trì lối sống theo truyền thống của tổ tiên. Họ tổ chức thành các thị tộc, những nhóm người bao gồm vài chục gia đình, có mối quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí việc kết hôn giữa những người trong cùng một bộ lạc. Họ có thể sống cùng nhau và chia sẻ thực phẩm với nhau như một gia đình (gọi là mối quan hệ huyết thống).
Những người tinh khôn có khả năng ăn tạp, ban đầu chủ yếu sống bằng việc hái lượm trái cây và săn bắt các loài động vật. Ngoài ra, họ đã phát triển kỹ năng săn đuổi đám đông, tức là sử dụng sự đoàn kết của một nhóm người để vây bắt động vật, đẩy chúng xuống vực, và sau đó tấn công chúng bằng đá hoặc lao xuống để tiêu diệt chúng. Vì vậy, các công việc như vậy luôn đòi hỏi sự phối hợp và hiệp nhất giữa họ.
Mỗi thị tộc thường chiếm giữ một khu vực cụ thể, được gọi là lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc có thể dẫn đến hai kịch bản: một là sự phát triển và chia rẽ thành các thị tộc mới và hai là sự suy tàn của các thị tộc do bệnh tật, tai biến, hoặc xâm lấn từ các thị tộc khác, có thể dẫn đến thay đổi lãnh thổ của các thị tộc.
Buổi đầu của thời đại kim khí xã hội nguyên thủy
Việc phát hiện ra kim loại để sử dụng làm công cụ lao động đã mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước đây, con người chỉ sử dụng đá để làm công cụ. Tuy nhiên, vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên con người đã khám phá ra đồng kim loại. Đồng kim loại có đặc tính mềm mại nên ban đầu nó thường được dùng để làm đồ trang sức. Sau đó, họ đã học cách pha trộn đồng với thiếc và chì để tạo ra loại kim loại cứng hơn được gọi là đồng thau. Từ đó, con người đã có thể đúc ra các công cụ như rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng, và nhiều công cụ khác.
Khoảng 3000 năm trước Công nguyên, các cư dân ở Tây Á và Nam Âu đã là những người đầu tiên biết cách đúc và sử dụng sắt để làm lưỡi cày, cuốc, liềm, kiếm, dao găm, và nhiều công cụ khác.
Nhờ sự phát triển của công cụ kim loại, con người có thể mở rộng diện tích đất hoang, tăng năng suất lao động, và sản xuất nhiều hơn. Điều này không chỉ đảm bảo đủ thức ăn mà còn tạo ra sản phẩm dư thừa.
Xã hội nguyên thủy kết thúc
Bởi vì xuất hiện công cụ lao động mới tức là sự ra đời của các công cụ kim loại. Một số người có khả năng lao động xuất sắc hơn, tạo ra nhiều sản phẩm đến mức dư thừa, hoặc họ tận dụng vị trí và uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải cách của người khác và trở nên giàu có. Trong khi đó, một số người khác phải đối mặt với khó khăn và thiếu thốn.
Cũng từ đó mà chế độ “làm chung, ăn chung, hưởng chung” trong xã hội công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy đang trải qua sự tan rã và nhường chỗ cho một xã hội với các giai cấp khác biệt.